Thứ Bảy, 30 tháng 11, 2013

Tỉnh thức

Hôm ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ: "Quả thế, thời ông Nô-ê thế nào, thì ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Vì trong những ngày trước nạn hồng thuỷ, thiên hạ vẫn ăn uống, cưới vợ lấy chồng, mãi cho đến ngày ông Nô-ê vào tàu. Họ không hay biết gì, cho đến khi nạn hồng thuỷ ập tới cuốn đi hết thảy. Ngày Con Người quang lâm cũng sẽ như vậy. Bấy giờ, hai người đàn ông đang làm ruộng, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại; hai người đàn bà đang kéo cối xay, thì một người được đem đi, một người bị bỏ lại. "Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Anh em hãy biết điều này: nếu chủ nhà biết vào canh nào kẻ trộm sẽ đến, hẳn ông đã thức, không để nó khoét vách nhà mình đâu. Cho nên anh em cũng vậy, anh em hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến."
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Đoạn Phúc Âm hôm nay nói về ngày Chúa quang lâm. Điều quan trọng để đón ngày đó là phải luôn sẵn sàng. Chúa Giêsu dùng nhiều hình ảnh để giải thích rõ điều đó:
- Trước hết Ngài dùng chuyện ông Nôê trong Cựu Ước để khuyến cáo các môn đệ mình: người ta dễ bị cuốn hút trong những lo lắng cho cuộc sống vật chất (ăn uống, cưới vợ lấy chồng). Những lo lắng này không có gì là tội lỗi, nhưng có thể khiến người ta quên mất điều quan trọng là luôn luôn sống xứng đáng là môn đệ Chúa. Do đó khi ngày ấy đến một cách nhanh chóng và bất ngờ, thì những kẻ không sẵn sàng sẽ phải hư mất.
- Tiếp theo là một số hình ảnh diễn nghĩa, giúp dễ hiểu: Có những người bề ngoài thì hoàn toàn giống nhau (hai người đàn ông cùng làm ruộng ngoài đồng, hai người đàn bà cùng xay một cối bột) nhưng số phận hoàn toàn khác nhau: kẻ có chuẩn bị sẵn sàng thì được đem đi (đem đi với Thiên Chúa), còn kẻ không chuẩn bị thì bị bỏ lại (bỏ lại trong hư vong).
Kết luận, Chúa khuyên hãy tỉnh thức luôn vì chúng ta không biết lúc nào thì ngày ấy đến.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Theo cách viết của Thánh sử Mátthêu, những người thời ông Nôê chẳng làm điều gì có tội, chỉ làm những việc bình thường: “ăn uống, cưới vợ lấy chồng”. Nhưng họ bị chết trong cơn nước lụt. Không phải vì họ làm gì tội, mà vì họ không làm những việc phải làm. Họ làm rất nhiều việc cho cuộc sống thể xác, nhưng không làm việc gì cho cuộc sống linh hồn cả.
2. “Hai người đàn ông đang làm ruộng… hai người đàn bà đang kéo cối xay... thì một người được đem đi, còn người kia bị bỏ lại”: những người bề ngoài hoàn toàn giống nhau, nhưng số phận đời đời khác hẳn nhau. Cái khác biệt là có chuẩn bị cho đời sau hay không.
3. “Hãy mài sắc cảnh giác” (một kiểu nói mà xã hội thường dùng tới). Sự cảnh giác phải thường xuyên mài giũa, nếu không nó sẽ tự động cùn nhụt đi. Giống như trường hợp một con dao bén bằng sắt, nếu ta đem cất đi, chỉ một thời gian sau dù ta không làm điều gì sai quấy, con dao vẫn tự động lụt đi (không còn bén nữa) do tác động của không khí làm rỉ sét. Việc trông chờ Nước Chúa cũng vậy, cần mài sắc hoài.
4. Tính trì-trệ (inertia: còn gọi là ỳ-tính, noạ-tính) của vạn vật. Một đồ vật ta để trong phòng nó sẽ cứ nằm ỳ tại đó nếu không có ai đụng tới. Một hòn đá ta ném đi, sẽ tự động ghì lại và rơi xuống khi hết đà. Tinh thần con người cũng không tránh nổi sự trì trệ kiểu đó.
- Sự nguội lạnh, phai nhạt: Một ly nước nóng để trên bàn, dù ta không làm gì, nó vẫn từ từ bớt nóng, và trở thành lạnh ngắt. Sự nhiệt thành của ta đối với Nước Trời cũng vậy.
- Sự cạn kiệt: Một chiếc xe Honda chạy mãi mà không được châm thêm, xăng sẽ vơi dần và cạn kiệt. Sự hăng say ban đầu nếu không được bồi bổ thêm bằng ơn Chúa qua sự cầu nguyện… cũng sẽ cạn dần. Người ta thường nói: ‘Quỳ lâu, chầu mỏi’.
5. Elena Frings là một thiếu nữ mới 20 tuổi nhưng đau tim nặng. Các bác sĩ cho biết cô chỉ còn sống được 6 tháng. Cô bỏ việc làm ở sở để đi làm việc xã hội trong một tổ chức thiện nguyện ở Nam Mỹ. Cô làm việc rất đắc lực và có hiệu quả đến nỗi cô được mời đến New York để thuyết trình. Tại New York cô may mắn gặp một bác sĩ giỏi. Ông này giải phẫu cho cô và chữa cô khỏi bệnh tim. Sau khi khỏi bệnh, cô không quay lại sở làm nhưng quay lại Nam Mỹ với những công việc hàng ngày phục vụ những người khốn khổ, bởi vì điều đã ban cho đời cô có ý nghĩa và đã định hướng cho đời cô không phải là cuộc giải phẫu mà là cảm nghiệm về cái chết gần kề. (Christopher Notes)
6. Áp dụng bài học của dụ ngôn tên trộm: ta biết luôn đề cao cảnh giác để bảo vệ tài sản vật chất, sao không làm như thế đối với tài sản thiêng liêng vốn quý giá hơn nhiều.
7. Trách nhiệm: “Con người là thụ tạo duy nhất gánh lấy trách nhiệm đối với chính bản thân, đối với tha nhân, đối với thiên nhiên và trước mặt Thiên Chúa.” (Trích: Chờ đợi Chúa)
8. Một ngôi trường bị nổ. Cả trăm học sinh và giáo viên thiệt mạng. Nhiều gia đình chết 2 hay 3 em. Chính quyền địa phương bí mật sai người đến điều tra nguyên nhân vụ nổ. Trong một cuộc dò hỏi, vợ một công nhân xây dựng ngôi trường đó nói: trước khi thảm kịch xảy ra, chồng bà đã biết là việc xây đường ống dẫn khí đốt ở đó có vấn đề.
- Cái gì? Chồng bà biết rõ việc đặt đường ống dẫn khí có vấn đề?
- Đúng vậy.
- Thế chồng bà có báo cho ai biết việc đó không?
- Không.
- Vậy chồng bà phải chịu trách nhiệm về sự cố đó, chồng bà cũng là một tội phạm. (Góp nhặt)
9. Một người dân thuộc một bộ lạc miền núi được đưa đi thăm một đô thị. Ngay đêm đầu tiên ông đã giật mình thức giấc vì tiếng trống vang cùng khắp đô thị. Người ta cho anh biết đó là tiếng trống báo động về một cuộc hoả hoạn vừa xảy ra tại một khu phố. Chẳng bao lâu cuộc hoả hoạn được dập tắt. Trở về làng, ông đã báo cáo với các chức sắc trong làng như sau: người thành thị có một hệ thống chữa cháy rất kỳ diệu: khi có hoả hoạn, người ta chỉ cần đánh trống là ngọn lửa được dập tắt ngay tức khắc. Nghe thế, các chức sắc liền sai người đi mua đủ loại trống phát cho dân làng. Không bao lâu sau đó, hoả hoạn xảy đến trong làng, mọi người đều đem trống ra khua inh ỏi vì tin chắc tiếng trống sẽ xua đuổi được thần lửa. Thế nhưng ngọn lửa vô tình cứ thiêu rụi từ căn nhà này đến căn nhà khác trước cái nhìn ngỡ ngàng thất vọng của mọi người.
Tình cờ ghé thăm bộ lạc và được nghe kể lại, một người dân thành thị giải thích: Các người tưởng tiếng trống có thể dập tắt ngọn lửa ư? Không phải thế. Người ta đánh trống để đánh thức dân chúng và kêu gọi họ tích cực tham gia chữa cháy chứ không phải ngồi đó mà chờ ngọn lửa tắt đâu.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói đến sự tỉnh thức. Nhưng tỉnh thức không có nghĩa là ngồi đó khoanh tay và chờ đợi. (Trích: Mỗi ngày một tin vui)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa là Đấng mang bình an xuống trần gian, là Đấng cứu chuộc con hằng mong đợi! Hôm nay, Chúa giục con hãy mau tỉnh thức trước những cám dỗ của thế gian này, vì “Đêm sắp tàn và ngày đã gần đến” (Rm 13,13).
Xin giúp con biết tỉnh thức từ nội tâm, chứ không phải ngoài môi miệng, để nhận ra Chúa đang đến ngang qua anh em con, nơi các biến cố, sự kiện xảy đến với con.
Xin giúp con luôn sẵn sàng đón nhận thánh ý Chúa, để có thể sống hài hoà và tử tế với hết thảy mọi người, cho dù có những khác biệt với nhau bên ngoài. Để dù giữa cuộc đời, với biết bao bộn bề lo lắng, tâm hồn con luôn rộng mở sẵn sàng đón chờ ngày Chúa đến với con.
Chúa là nguồn hạnh phúc và là nguồn cứu rỗi của con: “Maranatha, lạy Chúa Giêsu, xin ngự đến” (Kh 22,20).

Thứ Sáu, 29 tháng 11, 2013

Theo Thầy

Một hôm, Đức Giê-su đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Người bảo các ông : "Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá." Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người.
Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người.
Suy niệm: 
A- Phân tích:
Bài Phúc Âm này cho ta biết đôi điều về ơn gọi của Thánh Anrê:
- Anrê là một trong 2 môn đệ đầu tiên được Chúa Giêsu gọi
- Chúa gọi ông ngay trong lúc ông đang làm công việc thường ngày (chài cá) và tại nơi hằng ngày ông thường sinh hoạt (Biển hồ).
- Chúa hứa chuyển ông từ chài lưới bắt cá sang chài lưới “bắt” người.
- Đáp lại lời Chúa gọi, Anrê đã “từ bỏ” mọi sự và “lập tức” đi theo Ngài.
B- Suy gẫm:
1. Muốn theo làm môn đệ Chúa thì điều trước hết là phải từ bỏ. Không riêng gì ơn gọi của Anrê, mà mọi ơn gọi khác trong Tân Ước cách riêng và trong Thánh Kinh cách chung cũng thế.
Chúa đã gọi tôi, tôi đã từ bỏ chưa ? Có gì chưa bỏ hẳn ?
Ngoài lần Chúa “chính thức” gọi tôi bỏ thế gian đi theo Chúa, Chúa còn gọi tôi nhiều lần, ngay nơi tôi đang sống và trong những việc làm hằng ngày của tôi. Tôi có nghe được những tiếng gọi đó không ?
2. Theo Phúc Âm Thánh Gioan, Thánh Anrê là người thích giới thiệu người khác đến với Chúa: giới thiệu một em bé có 5 chiếc bánh và 2 con cá (x. Ga 6,8-9), giới thiệu những người Hy Lạp đến gặp Chúa (x. Ga 12,23).
3. “Phần anh, hãy theo tôi. Tôi sẽ cho anh thành kẻ lưới người như lưới cá. Và ông theo Ngài” (Mt 4,19-20)
Một người hành khất máu me đầy mình nằm nơi vệ đường làm tôi chú ý. Nhưng tôi lại tự nhủ sẽ có người khác giúp, còn tôi đang vội.
Tôi và các bạn trẻ ngày nay đang có xu hướng khép kín. Lòng quảng đại được đề cập tới một cách hời hợt, hiếm hoi, xa lạ. Có thể, tôi rất thích nói hay bàn luận về nó, với một chút tự hào về sự quảng đại của mình. Nhưng khi đụng thực tế, tôi lại co vào vỏ ốc ích kỷ của mình và luôn tự an ủi: tôi đang bận; thôi để lần khác.
Lời mời gọi khẩn thiết và thái độ đáp trả dứt khoát của các tông đồ mời gọi tôi nhìn lại bản thân và tự kiểm: Tôi đã thực sự quảng đại chưa? Có lần nào tôi đáp lại trọn vẹn tiếng gọi yêu thương của Thầy Giêsu chưa?
Lạy Chúa, xin cho con luôn biết sẵn sàng để có thể lên đường với Chúa khi Người đi ngang qua đời con và cất tiếng gọi mời.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa, xin cho con nhận ra tiếng Chúa kêu mời và mau mắn đáp trả để con có thể trở thành chứng nhân loan truyền Phúc Âm trong môi trường mà con đang sống.

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2013

Dấu hiệu

Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe một dụ ngôn: "Anh em hãy xem cây vả cũng như tất cả những cây khác. Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần rồi. Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra, thì hãy biết là Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy ra. Trời đất sẽ qua đi, nhưng những lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu."
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Khi thấy Cây vả đâm chồi thì người ta biết mùa hè sắp đến; cũng thế, khi thấy “những điều đó” (các thế lực gian tà lung lay) thì hãy biết triều đại Thiên Chúa sắp đến.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Một nhà thám hiểm Tây phương lạc hướng giữa sa mạc. Nguồn lương thực và nước uống đã khô cạn. Ông lê từng bước mệt mỏi trên cát nóng... Thình lình ông nghe tiếng suối róc rách và thấy trước mặt mình một ốc đảo xanh tươi. Thế nhưng, với lối suy nghĩ khoa học của người phương Tây, ông tự nghĩ: “Đây chỉ là một ảo ảnh... trong thực tế trước mắt ta làm gì có nước và cây cối”. Nghĩ như vậy, ông lại tuyệt vọng lê bước... Không bao lâu sau đó, hai người du mục tình cờ đi qua. Họ bắt gặp một xác người. Một người thốt lên “Chỉ còn hai bước nữa là người này đã có thể tới ốc đảo và tha hồ uống nước cũng như thưởng thức những trái ngọt cây lành. Tại sao lại có chuyện thế này?” Nhưng người bạn lắc đầu giải thích “Ông ta là một người phương Tây. Thế giới của chúng ta đầy ánh sáng và mầu nhiệm, nhưng con người lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy chúng.”
Thảm trạng của con người thời đại: con người có nhiều kiến thức hơn, nhưng lại dùng bàn tay nhỏ bé của mình để che đậy ánh sáng và mầu nhiệm... con người không còn biết đọc ra những dấu chỉ của thời đại. (Trích: "Mỗi ngày một tin vui")
2. Sự dẻo dai gan lì và lạc quan trong đời sống thiêng liêng: Giữa muôn vàn thử thách đau thương, người tín hữu không hẳn sẽ bị chết dí, nhưng có sức vươn dậy. Từ vài tín hiệu thật nhỏ nhoi, họ có khả năng nhìn ra những dấu chỉ tình thương cứu rỗi của Chúa đang đến gần.
3. Sự nhạy bén trong đời sống thiêng liêng: Có khả năng nhìn ra những tín hiệu loan báo tin vui. Nhìn ra ngay những chồi non và những con chim én loan báo mùa xuân: bắt được tín hiệu qua một nụ cười muốn làm hoà của người anh chị em vừa mới va chạm với ta. Nhìn ra thiện chí và sự đổi mới nơi những người ta thường ác cảm.
4. “Khi cây đâm chồi, anh em nhìn thì đủ biết là mùa hè đã đến gần. Anh em cũng vậy, khi thấy những điều đó xảy ra thì hãy biết là triều đại Thiên Chúa đã đến gần.” (Lc 21,30-31)
Con người cũng đang tìm cho mình sự sống vĩnh cửu. Theo quy luật của sự sống thì tôi phải chết. Khi tôi sinh ra là dấu hiệu tôi sẽ phải chết. Theo dòng thời gian, tôi lớn lên không thể tránh khỏi những bệnh tật. Đó là những dấu hiệu cảnh giác tôi. Về già, tôi cảm thấy yếu dần. Yếu dần là dấu hiệu tôi phải chết.
Nhưng với người kitô hữu, chết không phải là hết mà là cửa ngõ của sự sống, sự sống vĩnh cửu mà những dấu hiệu kia báo trước. Vậy tôi phải sẵn sàng, phải tỉnh thức để khỏi đánh mất sự sống đời đời.
Lạy Chúa, xin cho con biết nhận ra những dấu hiệu của sự sống vĩnh cửu trong đời con, để đừng sống như đã chết. (Hosanna)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, Chúa đã hứa ở cùng chúng con mọi ngày cho đến tận thế. Xin cho chúng con luôn nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa, để chúng con luôn hân hoan tiến bước trong sự quan phòng của Chúa. Xin giúp chúng con biết nhận ra ý Chúa để chúng con thực thi trong cuộc sống. Xin Thánh Thể Chúa luôn soi sáng mở lòng để chúng con khám phá ra tình yêu của Chúa luôn đong đầy trong cuộc đời chúng con, để chúng con biết dùng cuộc đời mình mà ca tụng Chúa.
Lạy Chúa, chúng con đang mong chờ ngày Chúa lại đến, xin cho chúng con biết thay đổi cuộc đời để xứng đáng được Chúa đón nhận vào vinh quang Nước Chúa. Xin giúp chúng con nhận ra dấu chỉ của Nước Chúa đang đến giữa chúng con qua các ơn lành của Chúa, qua những dấu chỉ thời đại để chúng con biết chu toàn bổn phận theo thánh ý Chúa. Xin giúp chúng con đừng vì lười biếng mà lãng quên bổn phận với Chúa. Xin cho chúng con luôn canh tân đổi mới cuộc đời theo giáo huấn của Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, ước gì chúng con luôn biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự để hôm nay chúng con sống trong ân nghĩa của Chúa, ngõ hầu mai sau chúng con được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa đời đời. Amen.
 

Thứ Tư, 27 tháng 11, 2013

Thời dân ngoại & Thời của Chúa

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: "Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị các đạo binh vây hãm, bấy giờ anh em hãy biết rằng đã gần đến ngày khốc hại của thành. Bấy giờ, ai ở miền Giu-đê, hãy trốn lên núi; ai ở trong thành, hãy bỏ đi nơi khác; ai ở vùng quê, thì chớ vào thành. Thật vậy, đó sẽ là những ngày báo oán, ngày mà tất cả những gì đã chép trong Kinh Thánh sẽ được ứng nghiệm. Khốn thay những người mang thai và những người đang cho con bú trong những ngày đó !" Vì sẽ có cơn khốn khổ cùng cực trên đất này, và cơn thịnh nộ sẽ giáng xuống dân này. Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại.
"Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển. Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến. Khi những biến cố ấy bắt đầu xảy ra, anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc."
Suy niệm: 

A- Phân tích (Hạt giống...)
Tiếp tục diễn từ chung luận:
- cc.20-24: Chúa Giêsu lại nói về ngày thành Giêrusalem bị tàn phá.
- cc.25-28: sau đó lại chuyển sang ngày tận thế và quang lâm. Tất cả những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi là vững chắc (mặt trời, mặt trăng, tinh tú, biển...) đều bị lay chuyển để nhường cho quyền lực của Con Người lên ngôi. Trước tình huống đó, “muôn dân” (tức là những kẻ không có đức tin) sẽ lo sợ đến hồn siêu phách lạc, vì chỗ dựa của họ đã bị lung lay. Nhưng các môn đệ Chúa thì hãy vui mừng và ngẩng đầu lên chờ đợi Chúa ngự đến.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Năm 70 sau công nguyên, tướng Titus của đế quốc La Mã đem quân bình địa Giêrusalem... Đền thờ Giêrusalem biểu trưng của niềm tin tôn giáo như lời tiên báo của Chúa Giêsu đã “không còn hòn đá nào trên hòn đá nào”... Tuy nhiên, nếu người Do Thái thương khóc cho một quê hương đổ nát, thì các Kitô hữu lại hân hoan ra đi truyền bá Phúc Âm cho các dân tộc khác; sự sụp đổ của thành Giêrusalem đã giúp cho họ nhận ra tính công giáo của Kitô giáo. Nước Thiên Chúa đến bằng chính những gì mà con người cho là đổ nát, mất mát. Đó là cái nhìn Chúa Giêsu muốn mời gọi các tín hữu tiên khởi phải có. (Trích: "Mỗi ngày một tin vui")
2. Ai dựa vào những thế lực vật chất và thế gian thì khi sắp chết sẽ hoảng sợ vì những thế lực đó bị sụp đổ. Còn kẻ nào dựa vào Chúa thì khi chết sẽ vui mừng, vì họ biết mình sắp được về với Ngài.
3. Lời tâm sự của một người mẹ: Từ nhỏ tôi đã sợ chết, nhưng khi đứa con yêu dấu của tôi chết thì tôi không còn sợ nữa. Đó là nhờ câu chuyện ngụ ngôn vị Linh mục chủ sự lễ an táng đã giảng. Câu chuyện như sau:
Người mục tử dẫn đàn chiên đến một dòng suối để sang cánh đồng cỏ bên kia. Suối không sâu nhưng nước chảy mạnh nên chẳng con chiên nào dám bước xuống. Người mục tử không la hét, không dùng roi để lùa đàn chiên qua suối. Ông chỉ nhẹ nhàng bồng một con chiên con rồi bước xuống, đi qua phía bên kia. Con chiên mẹ thấy con mình đã đi qua suối được nên an lòng bước theo. Sau đó, cả đàn chiên bước qua suối nước, sang bờ bên kia, nơi có sẵn một đồng cỏ xanh rì.” (Sunday School Time).
4. Qua bài trích Phúc Âm, ta nhìn ra đường lối Chúa thật lạ lùng: Chúa thấy trước những tai hoạ sắp đổ xuống dân mình với cả những người đáng thương đang mang thai hoặc cho con bú, nhưng Chúa không đẩy tai hoạ đi giùm. Chúa không giải phóng dân Người ngay lúc đó. Chúa dành ra “một thời của dân ngoại”, mặc sức họ tung hoành.
- Trong nếp sống đạo đức của ta hình như cũng có thể có những lúc tương tự. Không biết có phải vì tội ta hay vì lý do nào khác nữa mà muôn thứ thử thách đổ dồn trên đầu ta làm ta tối tăm mắt mủi. Mọi sự trên trời dưới đất, mọi biến cố hầu như đều chống lại ta.
- Từ đáy vực thẳm đen tối đó, có lẽ thái độ tốt nhất là ta nhìn ra được lời Chúa mời gọi ta sám hối trở về với Ngài. Và sau đó với lòng phó thác và biết ơn, chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì chúng ta sắp được cứu rỗi”.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, Chúa là Chúa tể càn khôn. Chúa là Chúa của lòng chúng con. Chúng con xin dâng cuộc đời cho Chúa gìn giữ và chở che. Vì giữa cuộc đời hôm nay, có quá nhiều cám dỗ khiến chúng con lạc xa tình Chúa. Xin cho chúng con luôn trung thành tuân giữ Lời Chúa để ngày Chúa đến sẽ là niềm hân hoan cho cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, với tư cách là ngôn sứ cho thời đại, các Ðức Giám mục Việt Nam đã nhận định: "Ngày nay, một trong những điều gây nhức nhối lương tâm là sự gian dối trong nhiều lãnh vực, kể cả trong môi trường cần đến sự thật nhiều nhất là giáo dục học đường, thế nhưng vẫn đầy dẫy sự gian dối, biển lận". Xin giúp chúng con vượt ra khỏi trào lưu gian dối của thói đời. Xin giúp chúng con dám chấp nhận thiệt thòi để luôn sống trung thực với lương tâm ngay thẳng. Xin đừng để chúng con vì ham danh, hám lợi mà đánh mất lương tri con người. Xin cho chúng con ơn can đảm để làm chứng nhân cho sự thật giữa một thế giới đang bị sự dối trá, lừa đảo bao quanh. Xin cho người công giáo chúng con dám chấp nhận thiệt thòi để giữ công bình bác ái với tha nhân, và làm chứng cho chân lý và sự thật.
Lạy Chúa, xin Mình Máu Thánh Chúa nâng đỡ và củng cố đức tin còn yếu kém của chúng con. Xin nâng đỡ chúng con bằng ơn lành hồn xác của Chúa để nhờ đó chúng con luôn can trường sống theo tin mừng của Chúa. Amen.

Thứ Ba, 26 tháng 11, 2013

Kiên trì

Khi ấy, Chúa Giê-su nói với các môn đệ rằng: "Người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy. Đó sẽ là cơ hội để anh em làm chứng cho Thầy. Vậy anh em hãy ghi lòng tạc dạ điều này, là anh em đừng lo nghĩ phải bào chữa cách nào. Vì chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được. Anh em sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp. Họ sẽ giết một số người trong anh em. Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng dù một sợi tóc trên đầu anh em cũng không bị mất đâu. Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình."
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Trong văn mạch diễn từ chung luận, Chúa Giêsu báo trước cho môn đệ mình biết rằng có một thời kỳ Giáo Hội sẽ bị bắt bớ, rồi Ngài dạy họ phải sống thế nào trong thời kỳ đó:
- Câu 13: hãy coi những khốn khó đó là dịp để ta làm chứng cho Chúa.
- Câu 14-15: đừng sợ phải bào chữa thế nào, vì Ngài sẽ ban cho họ sự khôn ngoan mà kẻ thù không thể nào thắng được.
- Câu 16-18: đừng sợ khi bị bắt bớ và thù ghét, vì vẫn có Chúa quan phòng trong tất cả những hoàn cảnh éo le đó.
- Câu 19: phải kiên trì.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Câu 13: gian nan khốn khổ là những cơ hội để anh em làm chứng. Những cha mẹ giàu có, họ cho con cái rất nhiều tiền nhưng chúng vẫn không tin rằng cha mẹ thương chúng, bởi vì chúng chưa có "bằng chứng" về sự tận tụy cực khổ của cha mẹ. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chịu nạn chịu chết để chứng tỏ cho loài người biết Thiên Chúa yêu thương họ. Cũng vì thế, các tông đồ rất vui mừng khi bị bách hại, vì đó là dịp để họ chứng tỏ tấm lòng của họ đối với Chúa.
2. Trong Phúc Âm có nhiều “lời hứa” rất đáng sợ: “Chúng con sẽ bị chính cha mẹ, anh chị em, bà con và bạn hữu bắt nộp”; “Họ sẽ giết một số người trong chúng con”; “Vì danh Thầy, chúng con sẽ bị mọi người thù ghét” v.v… Tại sao thế?
Bởi vì đó chính là con đường mà người môn đệ phải đi: “Ai muốn theo ta, hãy bỏ mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8,34); và đó cũng chính là hạnh phúc thật của người môn đệ Chúa “Phúc cho ai bị bắt bớ vì sự công chính” (Mt 5,10).
3. Có lúc nào đóchúng ta thử chậm rãi đọc lại những lời thấm thía trong Kinh cầu các Thánh Tuẫn Đạo Việt Nam:
Là chứng nhân anh dũng của Đức Kitô...
Là thành phần trung kiên của Hội Thánh...
Xưa Chúa đã ban cho các Ngài được vững tin vào Lời Chúa, và đầy sức mạnh của Thánh Thần, nên các Ngài đã cam lòng chịu gian lao đau khổ, quyết một lòng theo Đức Kitô trên con đường thập giá và hy sinh đến giọt máu cuối cùng...
Các Ngài đã hy sinh tất cả vì Đức Tin.
4. Kiên trì trong nhiệm vụ: Nhiệm vụ của đồng hồ là mỗi giây phải kêu lên một tiếng tích tắc.
Một chiếc đồng hồ trẻ vừa sinh ra từ một hãng chế tạo được đưa về đặt trong phòng khách một gia đình. Cậu bé làm bài toán về những tiếng tích tắc mình phát ra: mỗi phút 60 giây, mỗi giờ 60 phút, mỗi ngày 24 giờ, mỗi tháng 30 ngày, mỗi năm 12 tháng. Cậu rùng mình sợ hãi vì không biết mình phải làm nhiệm vụ bao nhiêu năm. Thấy thế cụ đồng hồ già đứng ở xó nhà lên tiếng an ủi: Cháu à, đừng quá lo sợ như thế. Bác đã làm công việc này suốt ba thế hệ rồi. Kinh nghiệm của bác là chỉ cần để í mỗi giây phát ra một tiếng thôi. (Bruno Hagspiel)
5. “Có kiên trì, anh em mới giữ được mạng sống mình” (Lc 21,19)
Một chàng thanh niên nọ bị bỏ rơi từ khi mới lọt lòng mẹ. Nhờ tình thương của ông bà cụ, anh thoát chết. Được sự nuôi nấng của gia đình, theo thời gian, anh lớn lên, rồi trở thành một ngư phủ. Hằng ngày, anh ra khơi đánh cá về giúp cha mẹ nuôi. Cuộc sống tưởng êm đẹp, nào ngờ một hôm tai họa ập đến. Anh bị thương trầm trọng do tai nạn thuyền gây ra. Mặc dù đã bán hết tài sản để chữa chạy nhưng anh vẫn không khỏi bệnh. Bố mẹ anh gạt nước mắt làm một cái chòi ở đầu đường rồi đặt anh vào đó để anh được sống nhờ lòng thương xót của khách qua đường. Do không được săn sóc, người anh mọc đầy ghẻ lở. Bệnh tật ngày một tăng, cơ thể hao mòn, cuộc đời như đã mất.
Nhưng rồi Thiên Chúa lại mỉm cười với anh. Với những lời động viên, an ủi, khuyến khích của bố mẹ nuôi mới, anh đã cố gắng kiên nhẫn tập luyện: mỗi ngày 1 giờ, rồi 2 giờ, 3 giờ và cứ thế. Bây giờ trong anh bừng lên một niềm vui sung sướng, hạnh phúc: Tôi sẽ bình phục.
Lạy Chúa, con cảm tạ Chúa vì Chúa luôn ở với con, gìn giữ con và nâng đỡ con. (Hosanna)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con cảm tạ Chúa vì Chúa luôn ở với chúng con. Chúa luôn gìn giữ và nâng đỡ chúng con. Chúa không bao giờ bỏ chúng con mồ côi. Xin cho chúng con biết chạy đến kêu cầu Chúa khi gặp gian nan, thử thách, biết trông cậy vào Chúa khi gặp trở ngại, hiểm nguy. Xin giúp chúng con luôn tin tưởng vào quyền năng của Chúa, để chúng con biết phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, năm xưa trên đường về đất hứa, Chúa đã nuôi dân riêng bằng bánh Manna từ trời. Hôm nay trên hành trình tiến về quê trời, Chúa lại nuôi dưỡng chúng con bằng chính Thánh Thể Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin Thánh Thể Chúa ban cho chúng con sức mạnh để đối phó với gian nan thử thách với tấm lòng son sắt trung kiên. Xin nâng đỡ sự yếu đuối để chúng con vượt thắng những cám dỗ mà giữ lòng thanh sạch khỏi bợn nhơ tội lỗi. Xin Chúa Giê-su Thánh Thể luôn đồng hành với chúng con trong mọi nơi, mọi lúc để chúng con luôn an tâm sống trong sự quan phòng, che chở của Chúa.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, xin giúp chúng con luôn tin vào quyền năng của Chúa, và sẵn sàng làm chứng cho Chúa trong bất cử cảnh huống nào của cuộc đời. Amen.
 

Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

Ngày Chúa lại đến

Nhân có mấy người nói về Đền thờ được trang hoàng bằng những viên đá đẹp và những đồ dâng cúng, Đức Giêsu bảo: "Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào." Họ hỏi Người: "Thưa Thầy, vậy bao giờ các sự việc đó sẽ xảy ra, và khi sắp xảy ra, thì có điềm gì báo trước?" Đức Giêsu đáp: "Anh em hãy coi chừng kẻo bị lừa gạt, vì sẽ có nhiều người mạo danh Thầy đến nói rằng: "Chính ta đây" và: "Thời kỳ đã đến gần"; anh em chớ có theo họ. Khi anh em nghe có chiến tranh, loạn lạc, thì đừng sợ hãi. Vì những việc đó phải xảy ra trước, nhưng chưa phải là chung cục ngay đâu". Rồi Người nói tiếp: "Dân này sẽ nổi dậy chống dân kia, nước này chống nước nọ. Sẽ có những trận động đất lớn, và nhiều nơi sẽ có ôn dịch và đói kém; sẽ có những hiện tượng kinh khủng và điềm lạ lớn lao từ trời xuất hiện.”
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Đoạn này mở đầu một đơn vị văn chương được gọi là “diễn từ chung luận” (Lc 21,5-36), trong đó Chúa Giêsu bàn đến những vấn đề “chung kết” của lịch sử: sự sụp đổ của thành Giêrusalem, ngày tận thế, và ngày Đức Kitô quang lâm. Diễn từ này khó hiểu, một phần vì được viết theo văn thể khải huyền, phần khác vì 3 biến cố trên được nhắc đến xen lẫn nhau khiến người đọc không biết rõ những câu nào nói đến biến cố nào.
- các câu 5-6: Chúa Giêsu tiên báo thành Giêrusalem sẽ bị tàn phá.
- câu 7: thính giả liên tưởng tới ngày tận thế nên hỏi Chúa Giêsu khi nào thì tận thế và có dấu nào báo trước không.
- câu 8-11: Chúa Giêsu không muốn cho biết những dấu chỉ rõ ràng về ngày tận thế. Bởi đó trước tiên Ngài khuyên người ta chớ tin vào những dấu chỉ mà người này người nọ đưa ra cho rằng sắp tận thế. Kế đó Ngài dùng những hình ảnh khải huyền khó hiểu để nói một cách úp úp mở mở rằng khi tận thế thì những gì xưa nay người ta cho là chắc chắn đều sẽ lung lay.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Mọi công trình con người xây dựng, dù cho kiên cố và quý giá đến đâu đi nữa, kể cả Đền thờ Giêrusalem... tất cả đều sẽ có ngày sụp đổ. Chẳng có gì bền vững ở thế giới này. “Trăm năm bia đá cũng mòn”; “Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa. Hoa nào không phai tàn? trăng nào không khuyết? ngày nào mà không có đêm? yến tiệc nào không có lúc tàn?”
2. Triết lý Á Đông: ”sự vật hễ có hình thì có hoại.”
3. Trong tuần lễ cuối cùng của năm Phụng vụ, Lời Chúa nhắc chúng ta hãy suy nghĩ về những vấn đề cuối cùng của đời người: chết, phán xét, số phận đời đời...
4. Các nhà văn muốn viết một quyển truyện hay thường nghĩ trước phần kết của câu truyện. Chúng ta muốn viết quyển truyện đời mình cho hay thì cũng phải nghĩ trước về ngày chết của mình, đừng như nhân vật trong chuyện dưới đây:
“Nhà khoa học Huxley đang gấp vì sợ đến trễ phiên họp trong đó ông phải đọc một bài tham luận. Ông nhảy lên một chiếc xe ngựa và bảo người đánh ngựa: “Hãy chạy hết tốc lực.” Xe chạy được một quãng, ông mới giật mình hỏi: “Nhưng mà ta đang chạy đi đâu vậy?” Người đánh xe ngựa đáp: “Tôi cũng chẳng biết, chỉ biết là xe đang chạy hết tốc lực.”
5. Cả cuộc sống êm ả lẫn cuộc sống bất ổn đều tiềm tàng những thuận lợn và những hiểm nguy cho đời sống thiêng liêng. Vấn đề là làm sao luôn rút được ích lợi ngay giữa hai tình cảnh đối nghịch đó:
Nếu được sống triền miên trong sự êm ả (Td: sống trong một xã hội sung túc đầy đủ, không bao giờ phải lo chiến tranh hoạn nạn…) người ta sẽ dễ an tâm sống đạo thờ phượng Chúa; nhưng cũng dễ rơi vào chỗ coi thường, bất cần đến đạo, bất cần đến Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, mỗi khi dân Chúa êm vui trong cảnh thái bình mà đâm ra truỵ lạc, tự mãn, không coi Thiên Chúa ra gì, thì thường xuất hiện vị ngôn sứ loan báo tai hoạ để nhắc nhở dân.
Ngược lại, nếu luôn phải sống trong phập phồng lo sợ, người ta dễ thấy mạng sống mình mong manh, thấy của cải vật chất không giúp bảo đảm gì nhiều cho mình, khi đó người ta dễ chạy đến với Chúa; nhưng nếu cứ phải sống triền miên trong xáo trộn, cuộc đời dễ mất ổn định và khó lòng đạt được những hoa trái của sự bình an.
6. “Những gì anh em đang chiêm ngưỡng đó sẽ có ngày bị tàn phá hết, không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21,6)
Ồ một chiếc bông hồng vừa hé nở đẹp quá! Thế mà chỉ vài ngày sau nó đã tàn úa, vì đó chỉ là những vẻ đẹp chóng qua.
Đền thờ Giêrusalem, một công trình mất đến 40 năm mới hoàn tất, vậy mà Chúa bảo rồi sẽ có ngày bị tàn phá. Giữa những vẻ đẹp nhân tạo, những vẻ đẹp của trần thế chóng qua, Chúa muốn tôi tìm kiếm vẻ đẹp không bao giờ tàn úa. Chỉ có vẻ đẹp của tâm hồn, chỉ có sự thánh thiện mới không có gì phá huỷ được. Vẻ đẹp đó chỉ có thể tô điểm bằng yêu thương và phục vụ.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu thương và phục vụ, để giữ mãi vẻ đẹp của tâm hồn.

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con cảm tạ Chúa đã cho chúng con tham dự vào đại hội trần thế này. Chúng con thật hạnh phúc vì được chiêm ngưỡng biết bao kỳ công mà Chúa đã làm. Chúa còn cho chúng con vinh dự là hình ảnh của Chúa. Chúa còn cho chúng con nên nghĩa tử trong gia đình của Chúa. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin giúp chúng con biết khám phá ra tình thương của Chúa luôn đong đầy trong cuộc đời chúng con, để nhờ đó chúng con biết hết mình ca hát ngợi khen tình yêu Chúa.
Lạy Chúa, nhìn những bông hồng vừa hé nở đẹp quá! Thế mà chỉ vài ngày sau nó đã tàn úa, vì đó chỉ là vẻ đẹp chóng qua. Hôm nay Chúa nhìn đền thờ Giê-ru-sa-lem nguy nga lộng lẫy, nhưng Chúa lại tiên đoán một ngày kia nó sẽ bị tàn phá. Vâng lạy Chúa, giữa những vẻ đẹp nhân tạo, giữa những vẻ đẹp của trần thế mau qua, Chúa muốn chúng con tìm kiếm vẻ đẹp không bao giờ tàn úa. Ðó chính là vẻ đẹp của tâm hồn thanh khiết không bợn nhơ tội lỗi, vẻ đẹp của tâm hồn cao thượng luôn biết sống yêu thương và phục vụ mọi người. Xin giúp chúng con biết tô điểm vẻ đẹp không bao giờ tàn phai nơi chúng con là các việc lành phúc đức, là cách ăn ở đoan trang, thanh khiết. Xin cho chúng con biết mặc vào cuộc đời mình chiếc áo của ân sủng để vượt thắng những cám dỗ trần gian.
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, xin ngự đến tâm hồn chúng con và củng cố đức tin còn yếu kém nơi chúng con. Xin giúp chúng con vượt thắng mọi trở ngại để sống tuân hành theo thánh ý Chúa luôn. Amen.
 

Chủ Nhật, 24 tháng 11, 2013

Dâng trọn cho Chúa

Ngước mắt lên nhìn, Đức Giêsu thấy những người giàu đang bỏ tiền dâng cúng của họ vào thùng tiền. Người cũng thấy một bà goá túng thiếu kia bỏ vào đó hai đồng tiền kẽm. Người liền nói: "Thầy bảo thật anh em: bà goá nghèo này đã bỏ vào nhiều hơn ai hết. Quả vậy, tất cả những người kia đều rút từ tiền dư bạc thừa của họ, mà bỏ vào dâng cúng; còn bà này, thì rút từ cái túng thiếu của mình, mà bỏ vào đó tất cả những gì bà có để nuôi sống mình."
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Gương dâng cúng của một bà goá
- “Bà góa”: Xã hội Do Thái không có những quy định bảo vệ quyền lợi các góa phụ cho nên họ rất bị thiệt thòi: tài sản của chồng thì họ không được hưởng (con cái họ hưởng), gia đình cha mẹ ruột của họ cũng không còn lo lắng cho họ bao nhiêu. Vì thế, trong Thánh Kinh, bà góa, trẻ mồ côi và ngoại kiều là những hạng người xấu số nhất và nghèo nhất (x. Đnl 24,17-22).
- Bà goá nghèo này đã dâng vào hòm tiền Đền thờ “Hai đồng tiền kẽm”: nguyên ngữ là đồng tiền Kodrantes tức là loại tiền nhỏ nhất trong các loại tiền thời đó.
- Tuy số tiền ít, nhưng được Chúa Giêsu đánh giá cao hơn số tiền của những người khác, “vì những người kia lấy của dư thừa mà dâng cho Thiên Chúa, còn bà này túng thiếu mà đã dâng tất cả những gì bà có để nuôi sống mình.”
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Cho đi không phải của dư thừa mà là chính cái mình đang cần thiết. Sự cho đi như thế rất quý vì cũng là sự cho đi chính bản thân mình.
Thông thường khi có dư, người ta mới cho: cho người nghèo và cho Giáo Hội.
2. Một linh mục nọ có thói quen tốt là ghi kỹ trong nhật ký hằng ngày về những số quà nhận và số quà cho. Thỉnh thoảng kiểm lại, nếu thấy phần nhận nhiều hơn phần cho thì linh mục ấy điều chỉnh lại để phần cho nhiều hơn.
Con người thường thích nhận hơn cho; có cho thì cũng để nhận lại.
3. Trong Tin Mừng Thánh Luca, Chúa Giêsu luôn luôn khuyên người ta rằng, cách sử dụng tiền của tốt nhất là cho đi, để đổi lại gia tài trên trời.
4. Cử chỉ của bà goá là một định nghĩa của lòng quảng đại: quảng đại chính là cho mà không tính toán. Xét cho cùng, quảng đại chính là trao ban chính bản thân mình.
5. Vào một mùa đông, tại một đất nước Châu Âu, có một em bé 13 tuổi nghe nhà trường thông báo đợt lạc quyên tiền bạc và phẩm vật làm quà Giáng Sinh cho các trẻ em nghèo trong vùng. Em đã dành dụm mọi chi tiêu vốn ít ỏi của em trong suốt 3 tháng. Khi đã được 15 đồng, em quyết định đón xe đò từ làng lên phố. Bất ngờ, một trận bão tuyết ập đến dữ dội làm tắc nghẽn mọi hoạt động giao thông. Không chịu bỏ cuộc, em xuống xe, co ro lội bộ băng qua cánh đồng đầy ngập tuyết trắng xóa và gió lốc lạnh buốt.
Ông hiệu trưởng nghe báo có người muốn gặp ông đang đợi ở phòng khách. Ông thực sự kinh ngạc sửng sốt khi nhận món tiến chia sẻ từ tay em bé, bởi vì trước mặt ông chính là một trong số những em bé nghèo mà ông và nhà trường đã đưa vào danh sách tặng quà giáng sinh năm đó.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, chúng con cảm tạ Chúa đã thương viếng thăm linh hồn chúng con. Chúng con xin chúc tụng ngợi khen Chúa, là Chúa của trí lòng chúng con. Xin cho chúng con luôn tràn ngập hân hoan trong tình yêu Chúa. Xin Mình Thánh Chúa tái tạo tâm hồn chúng con theo hình ảnh Chúa. Xin gìn giữ tâm hồn chúng con luôn thanh sạch và tránh xa những tư tưởng, hình ảnh xấu làm hoen ố tâm hồn chúng con.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã yêu thương chúng con từ đời đời. Chúa hằng luôn mong mỏi điều tốt lành đến với chúng con. Chúa là mục tử luôn chăm sóc ân cần đến từng cuộc đời của chúng con. Chúng con xin tạ ơn tình thương bao la mà Chúa đã dành cho chúng con. Chúa luôn ban cho chúng con rất nhiều niềm vui trong cuộc sống. Chúa còn cho chúng con rất nhiều ân huệ nhưng không của Chúa. Xin giúp chúng con biết đón nhận với lòng tri ân cảm tạ, và biết theo gương Chúa, chúng con cũng biết sống yêu thương và phục vụ tha nhân.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con trái tim của Chúa để chúng con luôn biết đem lại niềm vui cho mọi người. Xin ban cho con tình yêu của Chúa, để chúng con sẵn lòng giúp đỡ những ai cậy nhờ chúng con. Xin cho chúng con luôn biết sống vì tha nhân như Chúa đã sống vì yêu thương chúng con. Amen.
 

Thứ Bảy, 23 tháng 11, 2013

Vua Giêsu

Khi Đức Giê-su bị đóng đinh trên thập giá, dân chúng đứng nhìn, còn các thủ lãnh thì buông lời cười nhạo: "Hắn đã cứu người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa, là người được tuyển chọn!" Lính tráng cũng chế giễu Người. Chúng lại gần, đưa giấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!" Phía trên đầu Người, có bản án viết: "Đây là vua người Do Thái." Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập giá cũng nhục mạ Người: "Ông không phải là Đấng Ki-tô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi với!" Nhưng tên kia mắng nó: "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này đâu có làm điều gì trái!" Rồi anh ta thưa với Đức Giê-su: "Ông Giê-su ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!" Và Người nói với anh ta: "Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng."
1. Nguồn gốc và ý nghĩa Lễ Chúa Giêsu là Vua
Một triết gia đã đưa ra một nhận định rất bi quan : "Homo homini lupus" : con người là lang sói của con người. Lang sói là một loài thu dữ, bản tính thích tấn công, cắn xé và giết chóc. Thế mà loài người lại giống với loài thú dữ đó, luôn luôn tấn công nhau, cấu xé và giết chóc nhau.
Bởi vậy một sử gia đã đưa ra một kết luận tương tự với nhận định bi quan của triết gia trên : lịch sử loài người là một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau. Từ khi có loài người trên mặt đất này cho đến nay, có mấy khi mà loài người được hưởng thái bình ? Hầu hết thời gian lịch sử của loài người đều là chiến tranh. Gần đây nhất là 2 cuộc thế giới đại chiến, cuộc thứ nhất kéo dài từ năm 1914 đến 1918, làm cho 8.700.000 người chết ; cuộc thứ hai từ năm 1939 đến năm 1945, giết chết thêm 40 triệu sinh mạng nữa. Và hiện nay cả loài người đều phập phòng lo sợ sẽ xảy ra một cuộc đại chiến lần thứ 3 với những vũ khí hạt nhân. Lần này không phải chỉ có 8.700.000 người chết, hay 40 triệu người chết mà là tất cả mọi người, trái đất sẽ nổ tung, toàn thể loài người sẽ bị tiêu diệt.
Tại sao loài người chúng ta, một loài người có trí khôn, biết suy nghĩ, một loài cao hơn tất cả mọi loài vật khác mà lại cư xử với nhau một cách ngu xuẩn như vậy ? Thưa vì trong con người chúng ta vừa có tính thú vừa có tính người : tính thú thì giống như loài lang sói hung dữ cấu xé lẫn nhau, còn tính người là có trí khôn biết suy nghĩ biết tính toán. Khi buông trôi theo tính thú thì loài người chiến tranh với nhau ; và nếu con người lại dùng cái trí khôn ngoan của tính người để phục vụ cho cái tính thú kia thì con người lại càng dã man hung dữ làm hại nhau còn hơn loài sang sói đích thực nữa. Điều đáng tiếc là trong hầu hết lịch sự quá khứ, con người đã buông theo cái tính thú đó. Vì thế mà lịch sử loài người đã là lịch sử của một chuỗi những cuộc chiến tranh liên tiếp nhau.
Cho nên trong bối cảnh giữa 2 cuộc chiến tranh thế giới làm chết hàng mấy chục triệu sinh mạng con người như thế, ngày 11.12.1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI đã thiết lập Lễ Chúa Kitô Vua, mục đích là để cầu nguyện cho loài người thôi đừng buông theo tính thú mà cấu xé lẫn nhau, các nước đừng nuôi mộng bá chủ hoàn cầu mà chinh chiến với nhau ; nhưng mọi người hãy suy phục vương quyền Chúa Kitô và xây dựng vương quốc của Ngài, Đức Giáo Hoàng coi đó là chấm dứt chiến tranh.
Sở dĩ loài người cứ luôn làm hại làm khổ lẫn nhau là vì loài người còn sống theo cái tính thú trong mình. Vậy nếu muốn cho loài người hoà thuận với nhau để cùng nhau chung hưởng thái bình thì loài người phải sống theo cái tính người, gồm có những đức tính mà Chúa đã dạy chúng ta trong Tin Mừng. Con người sống đúng là con người. Chúa Giêsu gọi đó là Sự Thật ; còn ngôn ngữ phụng vụ hôm nay thì gọi đó là vương quyền, vương quốc của Chúa Kitô. Nước Chúa. Ai sống theo những giá trị Tin Mừng để thành người hơn thì người đó thuộc về Nước Chúa ; ai giúp cho người khác sống theo những giá trị Tin Mừng ấy thì người đó đang mở mang Nước Chúa ; và khi mọi người, dù có đạo hay không có đạo, đều sống theo những giá trị Tin Mừng ấy, thì đó là thời Nước Chúa đã trị đến.
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của năm phụng vụ. Giáo hội đặt lễ Chúa Kitô Vua vào Chúa Nhật cuối cùng này, cũng có ý nghĩa : đó là ước nguyện sao cho cuối cùng tất cả mọi người đều ở trong Nước Chúa, một nước chỉ có hoà thuận yêu thương, một nước thái bình hạnh phúc.
Phần mỗi người chúng ta, hãy cố gắng xứng đáng là một công dân Nước Chúa, nghĩa là biết sống đúng tính người, sống theo lương tâm, sống hoà thuận, yêu thương, làm việc lành theo lời dạy của Tin Mừng. Chúng ta cũng hãy cố gắng mở mang Nước Chúa bằng cách làm cho thêm nhiều người khác cũng biết sống hoà thuận yêu thương sống theo lương tâm và làm việc lành như vậy.
2. Chân lý cuối cùng
Trong những Chúa nhựt cuối của năm phụng vụ, Lời Chúa mời chúng ta nghĩ đến lúc tận cùng của thời gian, để thấy trước khi ấy tình hình sẽ như thế nào, và nhờ đó mỗi người cũng biết điều chỉnh cuộc sống mình trong hiện tại cho phù hợp với viễn ảnh cuối cùng ấy.
- Bằng ngôn ngữ khải huyền, các sách Tin Mừng mô tả lúc đó mặt trời mất sáng, mặt trăng tối sầm lại và các tinh tú trên trời rụng xuống. Qua những hình ảnh lạ lùng ấy, tác giả muốn nói rằng khi đến lúc tận cùng của thời gian, tất cả mọi thứ mà xưa nay người ta coi là quyền lực đều sụp đổ hết, để chỉ còn quyền lực của Thiên Chúa tồn tại và ngự trị.
- Còn sách Huấn ca Ben Sira thì mô tả một cách thi vị hơn và bằng những hình ảnh gần gũi hơn :
"Phù hoa nối tiếp phù hoa, trần gian tất cả chỉ là phù hoa...
Hoa nào không phai tàn. Trăng nào không khuyết
Ngày nào mà không có đêm. Yến tiệc nào không có lúc tàn
Phù hoa nối tiếp phù hoa..."
- Một thi sĩ khác cũng có những suy nghĩ tương tự, ông suy nghĩ về thời gian :
"Khi tôi là một đứa trẻ... tôi thấy thời gian bò tới
Khi tôi là một thanh niên... tôi thấy thời gian đi bộ
Khi tôi trưởng thành... tôi thấy thời gian chạy
Cuối cùng khi tôi bước vào tuổi chín muồi thì thấy thời gian bay
Chẳng bao lâu nữa tôi chết, lúc đó thời gian đã đi mất
Ôi lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến, thì ngoài Ngài ra, không còn gì là quan trọng nữa"
Những dẫn nhập khá dài dòng trên chỉ nhằm giúp chúng ta hiểu bài Tin Mừng lễ Chúa Kitô Vua hôm nay theo đúng hướng mà Phụng vụ của ngày Chúa nhựt cuối năm Phụng vụ muốn chúng ta hiểu. Trong hướng đó, chúng ta thấy được một số chân lý sau đây :
- Thứ nhất : Đến lúc tận cùng của thời gian, nghĩa là đến ngày tận thế, hoặc ngày chết của mỗi người, thì chúng ta sẽ thấy tất cả đều sẽ sụp đổ : tiền bạc, danh vọng, sức khoẻ, thế lực, thú vui.... Tất cả đều không còn ý nghĩa và tầm quan trọng gì đối với bản thân mình hết. Đúng như lời của bài thơ chót mà tôi vừa đọc : "Lạy Chúa Giêsu, khi cái chết đến thì ngoài Ngài ra không còn gì là quan trọng nữa".
- Thứ hai : Nếu khi đó chỉ có Chúa là quan trọng thì từ trước tới lúc đó trong cuộc sống, chỉ những ai gắn bó và nương dựa vào Chúa mới thấy yên lòng ; còn những người quen tìm kiếm, chạy theo và nương dựa vào những thế lực khác như tiền bạc, quyền lực, thú vui v.v. sẽ thấy chới với, cô đơn, trơ trụi...
- Thứ ba : Khi đó, đối với tất cả mọi người, dù tin hay không tin, dù tốt hay xấu, mọi người đều mở mắt và nhận thực rằng Chúa Giêsu chính là Kitô và là Vua thật. Kitô nghĩa là Đấng Cứu Vớt, Vua nghĩa là Đấng thống trị. Nhiều người trong lúc còn sống đã tưởng rằng nguồn cứu vớt của họ và thế lực hỗ trợ họ là tiền tài danh lợi thế gian, nhưng khi đó họ sẽ biết họ lầm. Chẳng hạn các nhân vật trong bài Tin Mừng hôm nay : Các thủ lãnh do thái, quân lính, Philatô và tên gian ác ở bên trái Ngài. Chiều hôm đó trên đồi Sọ, họ tưởng Chúa Giêsu đang thất thế vì rõ ràng Ngài đang bị treo, bị đóng đinh dính cứng vào thập giá. Họ chế nhạo Ngài "Nào có giỏi thì thử xuống khỏi thập giá đi". Họ cũng gọi Ngài là Kitô đó, cũng gọi Ngài là Vua đó, nhưng gọi một cách mỉa mai, gọi để nhạo báng : chẳng qua hắn chỉ là một tên Kitô dỏm, một ông vua cỏ mà thôi ! Nhưng đến ngày cùng tận, tất cả những người ấy sẽ sửng sờ khi thấy kẻ bị họ nhạo báng ấy lại xuất hiện với tất cả uy quyền và vinh quang, để xét xử và trừng phạt họ. Ngài đúng là Kitô và là Vua. Chiều hôm ấy trên đồi sọ, chỉ có một người đã nhận biết Ngài, đó là người trộm lành ở bên phải. Anh đã tin Ngài là Vua nên anh nói "Khi nào Ngài vào Nước của Ngài" ; anh cũng tin Ngài là Đấng Kitô cứu thế nên mới thưa "Xin Ngài cứu tôi, xin hãy nhớ đến tôi". Và chúng ta hãy suy nghĩ : hiện bây giờ người trộm lành ấy đang ở đâu ? Chắc chắn anh đang ở bên Chúa và hưởng hạnh phúc trong nước Chúa, như lời Chúa Giêsu đã hứa với anh chiều hôm ấy : "Ta bảo thật, ngay hôm nay anh sẽ được ở với Ta trên thiên đàng". Thật hạnh phúc thay cho người trộm lành, cả một đời gian ác tội lỗi, nhưng cuối cùng đã gặp được hạnh phúc thiên đàng, nhờ anh đã hiểu được phải trao cuộc đời cho ai và bám víu vào ai.
Cái chân lý mà mãi đến phút cuối đời người trộm lành mới thấy được ấy, Phụng vụ muốn chỉ cho chúng ta thấy ngay từ hôm nay : Chúa Giêsu chính là Đấng Kitô cứu vớt, Ngài chính là Vua. Ngoài Ngài ra không có ai, không có cái gì là vua thật và có thể cứu chúng ta thật. Vậy ngay từ hôm nay chúng ta hãy quyết định trao gởi cuộc đời mình cho Ngài, sống gắn bó với Ngài, và từ bỏ tất cả những gì nghịch với Ngài. Có như thế chúng ta mới có thể hưởng hạnh phúc muôn đời bên cạnh Ngài, là Kitô thật và là Vua thật của chúng ta.
3. Cơn cám dỗ cuối cùng
Vua Cảnh Công nước Tề, một hôm lên chơi núi Ngưu Sơn. Nghĩ rằng có ngày sẽ phải chết và giang sơn gấm vóc lại lọt vào tay kẻ khác, vua liền trào nước mắt tiếc thương. Đoàn tuỳ tùng thấy vua khóc cũng khóc theo. Duy chỉ có Án Tử là chúm miệng cười. Vua chau mày hỏi :
- Tại sao người ta ai cũng khóc cả, mà nhà ngươi lại cười ?
Án tử trả lời :
- Nếu các vua đời trước mà sống, thì vua ngày nay hẳn còn phải mặc áo tơi đội nón lá. Nhờ thế sự thăng trầm mà nay đến lượt vua được mặc áo gấm, đội mũ ngọc. Thế mà vua lại khóc. Thấy đấng làm vua bất nhân, bầy tôi siểm nịnh, tôi không cười sao được ?
Vua trần gian có thần dân để cai trị, có quan quân để sai khiến, có tiền của mỹ nữ để truy hoan.
Chúa Giêsu trái lại, Người không làm vua theo kiểu thường tình ấy. Người đã khẳng định : "Nước tôi không thuộc về thế gian này" (Ga 18,36). Vì thế, cung cách của vị vua Giêsu hoàn toàn mới lạ. Tin Mừng hôm nay sẽ nói lên tính cách Vương Quyền ấy của Người.
Dưới hình thức nhạo báng của các thủ lãnh Do thái, của lính tráng, của bản án treo trên thập giá, đã nói !ên vương quyền của Chúa Giêsu : "Hắn đã cứu được người khác, thì cứu lấy mình đi, nếu thật hắn là Đấâng Ki tô của Thiên Chúa, người được Thiên Chúa tuyển chọn" (Lc 23,35). "Đấng Kitôâ" chính là người được xức dầu, là tước hiệu của vua. "Người Thiên Chúa tuyển chọn" chính là tước hiệu Thiên Sai, là Đấng Cứu Thế. Nhất là lời tuyên xưng của người trộm lành đã nói lên vương quyền của Người : "Khi nào về Nước của Người, xin nhớ đến tôi" (Lc 35,42).
Tuy nhiên, nước của Chúa Giêsu không nhằm tư lợi cá nhân như các thủ lãnh khiêu khích, cũng không để ra oai quyền uy như bọn lính thách thức. Nước của Người là Nước Tình Yêu, vương quyền của Người là để phục vụ. Vì thế, Người đã không "xuống khỏi thập giá" cách ngoạn mục, nhưng đã "kéo mọi người" lên với Người (Ga 13, 32). Người đã không "cứu lấy chính mình", nhưng đã "cứu lấy mọi người" khỏi chết muôn đời nhờ cái chết của Người.
Người đã sẵn lòng chịu chết giữa hai tên gian phi, như lời Kinh Thánh rằng : "Người đã hiến thân chịu chết và bị liệt vào hàng phạm nhân" (ls 53,12). Người đã hoà mình trong đám người tội lỗi, đã chịu chung số phận của họ, Người đã sống và đã chết giữa đám tội nhân, như lời đồn đại về Người : "Bạn của người thu thuế và phường tội lỗi" (Mi 11,19).
Vâng, vương quyền của Người không cai trị bằng sức mạnh biểu dương, nhưng chinh phục bằng "khối" tình yêu thương. Chính vì thế mà Người đã chiến thắng cơn cám dỗ cuối cùng, là lời thách thức xuống khỏi thập giá, để sẵn lòng chịu chết hầu cứu chuộc con người tội lỗi, chính là thần dân của Người,
Thần dân đầu tiên mà vị Vua có vương miện là mão gai, và ngai vàng là gỗ thánh giá đã chinh phục, chính là người trộm lành. Giữa lúc những kẻ trước đây tung hô vạn tuế nay lại nhạo báng Người, giữa lúc các môn đệ thề sống chết với Người nay lại bỏ trốn hết, thì chỉ có một mình anh, người trộm lành, lên tiếng bênh vực Người : Anh mắng người trộm dữ : "Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này có làm điều gì trái !" (Lc 35,40-41). Anh tỏ lòng kính sợ Chúa và ăn năn sám hối, đó là thái độ của người sẵn sàng đón nhận ơn cứu độ.
Hơn nữa giữa lúc chương trình của Chúa Giêsu dường như thất bại, không còn hy vọng cứu vãn ; giữa lúc thập tử nhất sinh, gần kề cái chết, thì chỉ mình anh, người trộm lành, đã tin vào Chúa, tin vào sự sống đời sau, và tin vào vương quyền của Người. Anh cầu nguyện : "Lạy Ngài, khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Người nhận lời tức khắc :"Ngay hôm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta" (Lc 35,43).
Một lời hứa mà Người chưa hề ban cho ai dù đó là người thân tín và yêu quí nhất của Người.
Một lời hứa được thực hiện ngay tức thì, không đợi đến sáng phục sinh hay ngày thế mạt.
Một lời hứa đi vào vương quốc của những người công chính, qui tụ quanh vua Giêsu vinh hiển.
Lời hứa ban hạnh phúc cho anh trộm lành chính là cuộc sống thân mật với Vua Giêsu, mà anh đã chia sẻ số phận của Người trên thập giá. Cuộc đời của anh tưởng chừng như vĩnh viễn khép lại, nhưng chỉ với một chút niềm tin trong anh bừng sáng, một lòng sám hối chân thành, đã khiến cửa trời rộng mở, đón tiếp anh thênh thang bước vào. Chính từ khi anh trộm lành nhận ra người tử tù bị đóng đinh là vua trời, nhận ra sự sống trong cõi chết, phục sinh trong tử nạn, thì Vua Giêsu tiếp tục lan rộng cuộc chinh phục đến viên đại đội trưởng khiến ông cất tiếng tôn vinh Thiên Chúa : "Người này quả thật là công chính" (Lc 23,48).
Và trong suốt 2000 năm qua, Người vẫn luôn đón nhận vào trong vương quốc tình yêu của Người ; những thần dân biết duy trì tinh thần hiệp nhất, phục vụ và yêu thương. Chỉ những ai biết sám hối ăn năn, tin nhận vào quyền năng và tình thương của Chúa như anh trộm lành, môi được vào trong vương quốc của Người. Chỉ những người biết kính sợ Thiên Chúa và tin tưởng vào sự sống đời sau mới được ban cho Nước Trời.
Lạy Chúa, xin cho đức tin chúng con đủ mạnh để thấy Chúa không ngừng lôi kéo cả thế giới về với Người.
Xin dạy chúng con luôn cộng tác với Chúa để xây dựng Nước Trời ngay trong cuộc sống này, nhờ biết đẩy lui sự dữ trên địa cầu, trong khi kiến tạo an bình và yêu thương. Amen. (TP)
4. Hai tên gian phi
Các sách Tin Mừng ghi nhận rằng cùng bị đóng đinh chung với Chúa Giêsu hôm ấy còn có hai tên gian phi. Phần Tin Mừng theo thánh thì phân biệt có một người đã sám hối, còn người kia thì không. Chúng ta hãy xem xét từng người.
Trước tiên là tên gian phi không sám hối. Hắn chẳng còn tình cảm, chẳng còn lương tri, chẳng còn nhân tính gì nữa cả. Bởi vì tới lúc sắp chết mà hắn cũng không chút hối hận. Ngay cả Chúa Giêsu cũng chẳng thể cứu hắn. Thực vậy, chẳng ai có thể cứu được người không chịu để cho mình được cứu. Tấm lòng thương xót của Thiên Chúa vẫn có sẵn đấy, nhưng tối thiểu con người phải muốn đón nhận. Oscar Wilde viết : "Kẻ đang ở trong tình trạng nổi loạn không thể nhận được ơn sủng".
Chúng ta nhìn sang tên gian phi sám hối. Nhiều người đã nghĩ rằng người này được cứu độ dễ dàng quá : sau một đời tội lỗi, anh ta chỉ cần nói với Chúa Giêsu một lời thôi thì được tha thứ hết. Anh đã ăn trộm mọi thứ, và cuối cùng lại ăn trộm luôn thiên đàng nữa. Có người khắt khe nghĩ rằng ít ra Thiên Chúa phải bắt anh ta ở trong luyện ngục một thời gian nào đó mới phải.
Thực ra nếu tìm hiểu kỹ trường hợp anh ta, chúng ta sẽ thấy rằng anh đã làm được một việc không phải là nhỏ và cũng không phải là dễ :
- Khi bị treo trên thập giá, anh không buông theo khuynh hướng xấu có sẵn trong mình mà bực bội và bất mãn để rồi có những phản ứng như tên gian phi kia, là thù người và hận đời rồi chửi bới lung tung. Thay vào đó, anh nhìn lại chính cuộc đời của mình. Anh đã thấy gì ? Thấy cả đời anh chỉ là một đống rác rưởi chẳng có chút gì tốt cả. Từ đó anh ý thức rằng mình đã làm hỏng tất cả : không phải chỉ làm hỏng nhiều việc, mà còn làm hỏng chính cuộc đời mình. Anh biết tội mình, anh nhận trách nhiệm về đời mình.
- Sau đó anh lên tiếng can gián tên gian phi kia đừng chửi rủa Chúa Giêsu nữa. Và anh quay sang kêu xin Ngài "Ông Giêsu ơi, khi nào Ông vào Nước của Ông, xin nhớ đến tôi".
Người ta vẫn có khuynh hướng đổ lỗi cho người khác chứ không chịu nhận trách nhiệm vào mình. Chuyện gì cũng nói "tại cái này", "bị cái khác", "do người này", "vì người nọ" v.v. Nhiều người còn viện vào khoa tâm lý mà ngụy biện rằng chẳng có gì là tội thực sự cả, tất cả chỉ do hoàn cảnh đẩy đưa ; con người bị tác động bởi nhiều động cơ vượt tầm kiểm soát của mình.
Người gian phi sám hối bị tác động bởi hoàn cảnh bên ngoài nhiều lắm chứ : những đau đớn thể xác làm anh khó chịu, những tiếng la ó của dân chúng làm anh tự ái, án tử hình thập giá làm anh nhục nhã… Những thứ ấy đều xúi anh nổi loạn. Ngoài ra cái chết gần kề cũng xúi anh thất vọng : tới giờ phút này còn hy vọng gì sửa đổi tình thế được nữa ; vả lại tội anh đã quá nhiều và quá rõ…
Có thể sám hối được trong hoàn cảnh như thế không phải là một việc dễ. Tuy nhiên anh đã sám hối. Việc sám hối ấy đã mang lại cho anh chẳng những ơn tha thứ, mà còn cả thiên đàng.
Người gian phi sám hối dạy cho chúng ta biết rằng : không bao giờ là quá trễ để quay về với Chúa, không tội nào là quá nặng để không được thứ tha, bao lâu ta còn thở là ta còn cơ hội để hưởng lòng thương xót Chúa.
5. Chúa Giêsu là vua như thế nào ?
a. Làm vua có thể có nhiều cách, không nhất thiết cứ phải có đất đai, lãnh thổ, có quân đội, triều đình… mới là vua. Người ta vẫn nói : «vua dầu lửa», «vua xe hơi», «vua bóng đá», v.v… mặc dù những ông vua này không có quân đội, không cai trị ai. Chúa Giêsu không những làm vua hiểu theo nghĩa bóng, mà đích thực Ngài là vua hiểu theo nghĩa đen, nghĩa chính thức của từ «vua».
Trước hết, Ngài là vua, vua của cả vũ trụ, của cả trần gian, của cả nhân loại, vì Ngài chính là Ngôi Lời, một trong Ba Ngôi Thiên Chúa đã tạo dựng nên muôn loài vạn vật trong vũ trụ. Thánh Kinh viết : «Nhờ Ngài, vạn vật được tạo thành, và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành» (Ga 1,3 ; xem 1,10). Ngài là vua của thế giới, nên đến ngày chung cuộc, chính Ngài sẽ là người đến phán xét trần gian với tư cách một vị vua (Mt 25,34).
Thế gian này có nhiều nước, mỗi nước có một ông vua. Nhưng Ngài là vua cả thế gian, cả vũ trụ, nên Ngài là Vua trên hết các vua, là Vua của muôn vua.
b. Đức Kitô là vua. Nhưng Ngài khác với các vua khác ở chỗ : để cai trị, các vua khác dùng quyền lực, còn Ngài dùng tình thương. Thật vậy, Ngài yêu thương mọi người, mọi con dân của Ngài như người mục tử tốt lành yêu thương chăn dắt đoàn chiên, biết rõ từng con chiên một, và sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì lợi ích của chiên (xem Ga 10,11-16). Ngài hành xử như thế vì Ngài là Thiên Chúa, mà «Thiên Chúa là tình yêu» (1 Ga 4,8). Trong thực tế, Ngài đã hy sinh chết trên thập giá một cách khổ nhục để cứu nhân loại, là con dân được Thiên Chúa trao cho Ngài quyền cai trị.
c. Chúa Giêsu không chỉ là vua vũ trụ, vua của cả trần gian, mà Ngài còn là vua của tâm hồn mỗi người. Vì yêu thương, vị vua ấy ngự ngay trong thâm cung tâm hồn của mỗi người để sẵn sàng thi ân giáng phúc, ban sức mạnh, thánh hóa, làm cho họ ngày càng tốt đẹp, mạnh mẽ và hạnh phúc hơn. Tuy nhiên, Ngài có làm được điều đó hay không còn tùy thuộc vào sự tự do chấp nhận và sự tự nguyện cộng tác của chúng ta. Ngài sẽ không làm được gì cho chúng ta nếu chúng ta không muốn Ngài làm, hoặc nếu chúng ta hoàn toàn thụ động không cộng tác gì vào công việc mà Ngài muốn làm cho ta.
Để Ngài có thể hành động biến đổi con ta nên tốt đẹp, mạnh mẽ, thánh thiện hơn, ta cần tôn Ngài làm vua tâm hồn mình, bằng cách :
– Trước tiên, phải thường xuyên ý thức về sự hiện diện của Ngài ở trong ta.
– Kế đến là ý thức rằng Ngài là tình thương, Ngài yêu thương ta hơn tất cả mọi người, và sẵn sàng làm tất cả những gì ta cần cho sự phát triển và hạnh phúc của ta.
– Đồng thời ý thức Ngài là sức mạnh toàn năng, có thể thực hiện tất cả những gì Ngài muốn nơi ta.
– Vì thế, ta nhường quyền làm chủ bản thân ta cho Ngài, để Ngài hoàn toàn làm chủ bản thân ta. Ta không còn hành động theo ý riêng ta nữa, mà hoàn toàn hành xử theo ý của Ngài.
– Vì Ngài yêu thương ta, sáng suốt và khôn ngoan hơn ta rất nhiều, lại có khả năng làm tất cả những gì Ngài muốn, nên ta hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh của ta cho Ngài.
– Và cuối cùng là luôn luôn sống trong bình an, hạnh phúc của một người được Đức Kitô yêu thương và phù trợ. Hãy hưởng niềm hạnh phúc của một người được Vua của cả trần gian này yêu thương và quan tâm săn sóc. Hãy tin tưởng và luôn luôn an tâm rằng nhờ quyền năng của Ngài, tất cả những gì xảy đến cho ta đều hết sức có lợi, đều trở nên vô cùng tốt đẹp cho ta, cho dù hiện nay ta chưa hiểu rõ.
Nắm vững điều đó, ta sẽ thấy có Đức Kitô ngự trong tâm hồn mình là như có được một «cây đèn thần» trong tay, một «bùa hộ mạng» an toànmột «vị thần bảo trợ» hữu hiệu,một «người tình chung thủy» luôn luôn ở với ta suốt cuộc đời. Lúc đó ta sẽ sung sướng cảm nghiệm được như thánh Phaolô : «Tôi làm được tất cả mọi sự nhờ Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Vua vũ trụ, thế giới này từng ngày vẫn lôi kéo con đi theo luật của những quyền lực và vương quốc khác: Sự tham lam, ham muốn vô độ, buông thả tình dục, bạo lực độc ác, kiêu ngạo vô thần, thờ ơ vô cảm... trước những nỗi khốn cùng của tha nhân.
Khi ngắm nhìn dung mạo Chúa trên thập giá, con nhận ra quyền lực và vương quốc của Chúa thì khác hẵn: Chúa đến “không phải để người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá cứu chuộc muôn người” (Mt 20,28). Trong vương quốc của Chúa không ai bị loại trừ, dù là kẻ trộm cướp: “Ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta” (Lc 23,43).
Lạy Chúa, khi con quên mình mà phục vụ tha nhân, thì vương quyền của Chúa mới thực sự hiện diện trong con. Ước gì con chấp nhận để Chúa làm vua đời mình và đưa Chúa đi vào những nơi Chúa chưa hề đến. Amen.

Thứ Năm, 21 tháng 11, 2013

Nhà cầu nguyện

Chúa Giêsu vào Đền Thờ, Người bắt đầu đuổi những kẻ đang buôn bán và nói với họ: "Đã có lời chép rằng: Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp!" Hằng ngày, Người giảng dạy trong Đền Thờ. Các thượng tế và kinh sư tìm cách giết Người, cả các thân hào trong dân cũng vậy. Nhưng họ không biết phải làm sao, vì toàn dân say mê nghe Người.
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Ý nghĩa của hành động Chúa Giêsu là thanh tẩy Đền thờ, gồm 2 khía cạnh:
1. Loại khỏi Đền thờ những gì đi lệch khỏi mục đích của nó. Việc buôn bán trong Đền thờ đã biến “Nhà Cha Ta là nhà cầu nguyện” trở thành “sào huyệt của bọn cướp”, cho nên Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người buôn bán.
2. Trả lại cho Đền thờ ý nghĩa đích thực của nó: “Hàng ngày Ngài giảng dạy trong Đền thờ”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Mua bán những lễ vật để đem vào dâng trong đền thờ không phải là thờ phượng đích thực. Nghĩ rằng dâng lễ vật tức là thờ phượng Chúa thì càng sai hơn nữa. Bởi đó Chúa Giêsu đã đánh đuổi những người mua bán lễ vật. Thờ phượng đích thực là lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Bởi đó sau khi đánh đuổi những người mua bán, Chúa Giêsu “hằng ngày giảng dạy trong Đền thờ”“toàn dân say mê nghe Ngài”.
2. Việc phượng tự của chúng ta dễ bị biến chất, mất đi ý nghĩa cao đẹp ban đầu. Xin Chúa Giêsu giúp ta biết thường xuyên rà lại nếp sống thờ phượng của ta.
- Chúa Giêsu đến canh tân việc phượng tự: từ nay không còn là chiên bò, chim câu… mà chính thân xác Ngài là lễ vật tuyệt hảo dâng lên Thiên Chúa Cha.
- Chúa Giêsu là đền thờ mới sau khi “bị phá đổ trong ba ngày”. Từ nay muôn dân quy tụ nơi đền thờ này để dâng lễ vật.
3. Ta nhớ lại lời Thánh Phaolô: “Thưa anh em, vì Thiên Chúa xót thương chúng ta, tôi khuyên nhủ anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.” (Rm 12,1).
Cả cuộc đời tôi là của lễ. Lạy Chúa, xin thương nhận ‘của lễ hiến tế đời con’.
4. Hay tin một Linh mục mới vừa được đổi đến để thay cho Cha xứ cũ về hưu, lại được biết Linh mục mới này giảng rất hay, cho nên người ta đến nhà thờ dự lễ rất đông. Nhưng lần đầu tiên xuất hiện trước giáo dân trong xứ, vị Linh mục mới cố tình ra mắt họ với một bộ mặt rất xấu xí. Bởi đó, khi vừa thấy mặt cha, một số người đã thất vọng lui ra cửa. Vị Linh mục bình thản giơ tay làm dấu bảo im lặng, rồi tuyên bố: “Hôm nay ai đến đây để nhìn mặt Cha xứ mới và để nghe cha xứ mới giảng thì có thể về nhà; còn ai đến đây để thờ phượng Chúa thì hãy ở lại.” (Christian Beacon)
5. “Chúa Giêsu nói với họ: ‘Đã có lời chép rằng Nhà Ta sẽ là nhà cầu nguyện, thế mà các ngươi đã biến thành sào huyệt của bọn cướp” (Lc 19,46)
Có những lúc con tự hỏi: Chúa sẽ như thế nào khi Ngài đến nơi cung lòng con? Và dường như con nghe Lời Ngài khiển trách, vì đã có những lần con đến gặp Ngài nơi bàn tiệc thánh nhưng tâm trí con lại để ở đâu. Con mãi lo suy tính: chiều nay con sẽ đi shop mua giày, sáng mai con dậy sớm để giải một bài toán. Có khi cả buổi lễ con toàn nhớ đến “người ấy”. Hay hết bài giảng của Linh mục chủ tế là con lập được dàn ý của bài luận văn…
Chúa Giêsu ơi, xin cho con mỗi lần đến với Ngài, tâm hồn con thanh thản, và con gặp được Chúa trong tình thân. (Hosanna)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con thật hạnh phúc vì được trở nên đền thờ cho Chúa ngự trị. Chúng con biết rằng: Chúa ưa thích cõi lòng chúng con hơn mọi đền đài nguy nga tráng lệ. Chúa muốn chúng con dành chỗ nhất cho Chúa ngự trị trong cõi lòng chúng con. Xin giúp chúng con biết dọn mình xứng đáng mỗi khi được rước Chúa. Xin tháo gỡ khỏi tâm hồn chúng con những quyến luyến tạo vật tầm thường để tâm hồn chúng con dành trọn vẹn cho Chúa.
Nhưng Chúa ơi, xin tha thứ cho những bộn bề trăm chiều của lòng trí chúng con. Chúng con còn để tâm hồn mình ngổn ngang bởi những đam mê tội lỗi, những tư tưởng thiếu thanh cao, những suy nghĩ tầm thường. Tâm hồn chúng con chưa dành cho Chúa vị trí số một. Chúng con còn để cho những lôi kéo của danh lợi thú trần gian làm chủ tâm hồn mình. Xin giúp chúng con đừng vì những quyến luyến thụ tạo tầm thường mà đánh mất sự trong sạch của tâm hồn là đền thờ của Chúa. Xin cho chúng con luôn biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự và phụng sự Chúa hết lòng hết trí khôn.
Lạy Chúa, xin cho chúng con một tâm hồn thanh thoát khỏi những đam mê trần gian. Xin gột rửa linh hồn chúng con trong ơn thánh của Chúa để nhờ đó chúng con nên tinh tuyền xứng đáng là đền thờ của Chúa. Amen
 

Thứ Tư, 20 tháng 11, 2013

Chúa khóc thương

Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Đức Giêsu khóc thương mà nói: "Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi! Nhưng hiện giờ, điều ấy còn bị che khuất, mắt ngươi không thấy được. Thật vậy, sẽ tới những ngày quân thù đắp luỹ chung quanh, bao vây và công hãm ngươi tư bề. Chúng sẽ đè bẹp ngươi và con cái đang ở giữa ngươi, và sẽ không để hòn đá nào trên hòn đá nào, vì ngươi đã không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm."
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Thành Giêrusalem tượng trưng cho dân do thái và cho tất cả những người được Thiên Chúa ưu ái nhưng đã phụ lòng Ngài nên cuối cùng phải gánh lấy số phận bi thảm.
Lỗi của nó là gì? Là không “nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi” (câu 41); “không nhận biết thời giờ ngươi được Thiên Chúa viếng thăm” (câu 44). Ơn Chúa ban cho nó rất nhiều, nhất là ơn “bình an” và “viếng thăm”. Nhưng nó đã coi như không, nên không nhận biết để cám ơn, không nhận biết để xử dụng, không nhận biết để hiểu xem ý Chúa muốn nó làm gì khi ban ơn cho nó.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. “Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi”. Lời Chúa Giêsu rất giống với lời Thánh Vịnh đầu tiên chúng ta đọc mỗi sáng “Ước chi hôm nay các bạn nghe tiếng Người và đừng cứng lòng nữa” (Tv 94). Lời này mỗi ngày nhắc nhở chúng ta “nhận biết” tiếng Chúa nói với chúng ta suốt ngày, và chúng ta đừng cứng lòng như thành Giêrusalem xưa.
2. Ngày nay người do thái vẫn còn đến bên bức tường đổ nát của cổ thành Giêrusalem để than khóc cho số phận của đất nước và tiếp tục chờ mong Đấng Messia “của họ”. Nhưng trớ trêu thay lúc Đấng Messia thật đến viếng thăm họ thì họ đã chối từ và xử tử ! Tại vì họ đã “không nhận biết”. Xin giúp con tỉnh táo “nhận biết” những thời giờ Chúa đến viếng thăm con.
3. Mỗi ngày tôi đã để vuột mất biết bao “sứ điệp bình an” do anh chị em trong cộng đoàn đem đến. Tôi đã cố nhắm mắt do thành kiến, ác cảm, giận hờn… Tôi cứ mù quáng chạy miết theo sở thích và ý riêng của tôi. - Lạy Chúa, đáng lẽ con phải khóc cho bản thân, nhưng con cứ thản nhiên tự đắc… và hình như Chúa đang khóc cho tình trạng khốn đốn của con.
4. Một buổi trưa hè nóng bức, Thánh Phanxicô Assisi sau khi đi đường mệt nhọc đã tìm được một chỗ nghỉ chân rất thoải mái. Chỗ đó là dưới một gốc cây có tàng lá che mát, bên dưới là một dòng nước trong lành mát rượi. Thánh nhân rửa tay rửa mặt xong xuôi rồi ngả mình dưới tàng lá. Bỗng dưng người bật khóc. Vì người nghĩ : từ không biết bao đời, Chúa đã biết hôm nay mình đến đây, Chúa biết mình mệt, cho nên Chúa đã đặt sẵn ở đây một bóng mát và một dòng suối để cho mình nghỉ ngơi.
Cái nhìn của bậc thánh nhân đã nhận ra những điều mà người phàm không bao giờ thấy được.
5. “Khi đến gần Giêrusalem và trông thấy thành, Chúa Giêsu khóc thương mà nói : Phải chi ngày hôm nay ngươi cũng nhận ra những gì đem lại bình an cho ngươi” (Lc 19,41-42)
Chúa Giêsu đã khóc thương dân thành Giêrusalem, và hôm nay Ngài cũng đang khóc thương tôi.
Ngài khóc thương khi thấy tôi bị xô đẩy quay cuồng bởi dòng xoáy của cuộc đời, nhưng vẫn cố bám vào những “cột mốc” không bền vững và tin đó là cột mốc của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con cảm nhận được tình Ngài yêu con, biết lấy Ngài làm cùng đích đời con. (Hosanna)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, năm xưa Chúa rất buồn khi nhìn thấy tương lại xụp đổ của thành thánh Giê-ru-sa-lem. Và có lẽ hôm nay Chúa cũng rất buồn khi nhìn thấy tâm hồn chúng con tan nát rã rời trong đam mê tội lỗi, trong thất vọng chán chường, trong hận thù chia rẽ. Chúa còn buồn hơn khi thân xác chúng con là đền thờ của Chúa đang bị tục hoá, bị xúc phạm bởi lối sống buông thả, tội lỗi của chúng con. Xin Chúa Giê-su thánh Thể ngự trị trong tâm hồn chúng con, chiếm đoạt tâm hồn chúng con nên bạn nghĩa thiết của Chúa. Xin gìn giữ linh hồn và thân xác chúng con trong ân nghĩa của Chúa.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, lời Chúa luôn nhắc nhở chúng con: mọi sự rồi sẽ qua đi, thân xác này sẽ hư nát. Xin cho chúng con biết tuân giữ lời Chúa để sau khi kết thúc cuộc sống này chúng con được Chúa đón nhận vào sự sống vĩnh cửu đời sau. Xin giúp chúng con biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của hình ảnh Chúa nơi tâm hồn chúng con bằng đời sống thanh thoát khỏi những đam mê lầm lạc, bằng sự loại bỏ trong tâm hồn chúng con những ý hướng tội lỗi, những lối sống hưởng thụ bất chính. Xin nhắc cho chúng con luôn nhớ rằng: thân xác là đền thờ của Chúa, để chúng con kính trọng thân xác của mình và tha nhân.
Lạy Chúa, Chúa muốn tất cả nhân loại tin nhận Chúa để được ơn cứu độ. Xin cho anh chị em lương dân biết nhận ra Chúa là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống và cùng tin nhận nơi Chúa. Amen.
 

Thứ Hai, 18 tháng 11, 2013

Tìm và cứu

Sau khi vào Giê-ri-khô, Chúa Giê-su đi ngang qua thành phố ấy. Ở đó có một người tên là Da-kêu; ông đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Ông ta tìm cách để xem cho biết Chúa Giê-su là ai, nhưng không được, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy tới phía trước, leo lên một cây sung để xem Chúa Giê-su, vì Người sắp đi qua đó. Khi Chúa Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: "Này ông Da-kêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người. Thấy vậy, mọi người xầm xì với nhau: "Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ!" Ông Da-kêu đứng đó thưa với Chúa rằng: "Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn." Chúa Giê-su mới nói về ông ta rằng: "Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Áp-ra-ham. Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất."
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Mở đầu câu chuyện, ông Dakêu được mô tả là kẻ tội lỗi: thu thuế (lại còn "đứng đầu những người thu thuế") và lo thu tích của cải ("và là người giàu có") - Cuối câu chuyện, ông thay đổi hẳn: "Hôm nay ơn cứu độ đã đến cho nhà này"; phân phát tài sản cho người nghèo (là điều Chúa Giêsu thường khuyên làm. x. Lc 12,33-34 16,1-8 16,9-13 v.v.); đền bù những thiệt hại đã gây cho người khác.
Có hai nhân tố tạo nên sự thay đổi đó:
- Một là những cố gắng của chính Dakêu: "tìm cách xem" mặt Chúa Giêsu, "chạy tới phía trước", "leo lên một cây sung để xem Chúa Giêsu".
- Hai là lòng nhân từ của Chúa Giêsu: Ngài "nhìn lên" ông, Ngài gọi ông "xuống mau đi", Ngài đưa đề nghị đến nhà ông "Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông". Chúa Giêsu tự giới thiệu là"Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất".
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Ông Dakêu hoán cải trở lại
Câu chuyện được kể lại trong bài Phúc Âm hôm nay có nhiều tình tiết diễn biến như một vở kịch sinh động. Vậy chúng ta hãy theo dõi lần lượt những diễn biến đó.
- Khởi đầu nhân vật thứ nhất xuất hiện. Đó là Chúa Giêsu. Ngài đang đi trên lộ trình ngang qua thành Giêricô để tiện về thành Giêrusalem. Ngài chỉ đi như vậy thôi hay là còn có một mục đích nào khác nữa không? Câu chót của đoạn Phúc Âm này cho thấy Chúa không phải chỉ đi lang thang, mà có mục đích rõ ràng, đó là để "tìm cứu vớt những gì đã hư hỏng".
- Tới phiên nhân vật thứ hai xuất hiện, đó là ông Dakêu, một người giàu có nổi tiếng ở thành phố Giêricô này. Ông làm giàu nhờ nghề nghiệp của ông, trưởng ban thu thuế. Dĩ nhiên nếu chỉ có đồng lương hàng tháng thì ông không giàu như vậy được. Sở dĩ ông giàu là vì ông đã gian lận trong việc thu thuế. Ai cũng coi ông là một kẻ tội lỗi. Phần Dakêu dù giàu nhưng vẫn thấy thiếu thốn một cái gì đó trong tâm hồn, ông đang muốn tìm cái đó thì hay tin có Chúa Giêsu đang đi ngang qua thành phố. Ông vội vàng chạy tới để mong gặp được Ngài. Nhưng dân chúng thì đông, mà ông thì thấp lùn không thể nhón gót lên mà thấy Ngài được, nên ông trèo lên một cây sung cho dễ nhìn.
- Xin hãy chú ý nghĩa của những chi tiết này: Chúa Giêsu đang đi tìm người tội lỗi, và người tội lỗi cũng đang đi tìm Chúa. Hai bên gặp nhau và ơn cứu rỗi được thực hiện. Ơn Cứu rỗi là kết quả của sự găïp gỡ của 2 phía: phía Chúa và phía người tội lỗi. Nếu Chúa không đi tìm thì chẳng ai được cứu rỗi. Nhưng dù Chúa có tìm mà người tội lỗi không đáp lại thì cũng chẳng có ơn cứu rỗi. Phải có sự hợp tác của cả 2 phía.
- Khi hai nhân vật ấy gặp nhau, thì ai lên tiếng trước? Thưa là Chúa Giêsu. Ngài nhìn lên cây sung và nói với Dakêu. Xin chú ý lần nữa, chi tiết Chúa Giêsu lên tiếng trước cũng có ý nghĩa lắm: mặc dù ơn cứu rỗi là sự hợp tác giữa 2 phía, nhưng sáng kiến khởi đầu là từ phía Chúa.
- Chúng ta hãy theo dõi tiếp câu chuyện. Chúa Giêsu lên tiếng trước, nhưng Ngài nói gì? Chúa nói "Ông Dakêu ơi, xuống mau đi vì hôm nay tôi cần đến trọ ở nhà ông". Lại một lần nữa xin chú ý: Chúa Giêsu quả là người tế nhị. Chúa muốn giúp ông Dakêu nhưng lại nói là Chúa cần ông giúp đỡ. Tế nhị là ở chỗ đó, để sau đó ông Dakêu không ngại nhận sự giúp đỡ của Chúa.
- Bây giờ tới nhóm nhân vật thứ ba, là quần chúng. Khi họ nghe Chúa Giêsu nói là muốn đến ở trọ nhà một tên thu thuế tội lỗi như vậy thì họ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng: không lẽ nào một người thánh thiện như Chúa Giêsu mà lại đến ở nhà một người tội lỗi như ông Dakêu sao?
- Phần ông Dakêu thì quá mừng rỡ trước đề nghị của Chúa Giêsu. Ông tức khắc có một quyết định là từ nay sẽ chấm dứt lỗi làm ăn tội lỗi cũ. Ông sẽ lấy phân nửa tài sản của ông để bố thí cho những người nghèo. Còn đối với những người đã bị ông gian lận tiền bạc thì ông sẽ đền cho họ gấp bốn. Chúng ta nên biết rằng theo luật đạo Do thái ai phạm tội lỗi đức công bình mà muốn được tha thì tùy mức tội nặng nhẹ mà phải đền bù với mức độ khác nhau: nhẹ thì đền trả đủ số và cộng thêm 1/5; nặng thì phải đền gấp đôi. Ông Dakêu xin đền gấp bốn nghĩa là ông tự thú tội ông quá năng. Còn theo luật Rôma thì đối với những tội trộm cắp công khai thì phải đền gấp bốn. Ông Dakêu xin đền gấp bốn tức là ông cũng thừa nhận mình là một tên tội lỗi công khai. Cho nên quyết định của ông vừa là khiêm nhường, vừa là công bình vừa là bác ái.
- Nhưng khi Dakêu chịu bỏ ra phân nửa tài sản đó bố thí cho kẻ nghèo, lại sẵn sàng đền gấp bốn cho những ai bị ông làm thiệt hại thì tính ra số tiền ông phải bỏ thật quá nhiều. Ông làm như vậy có phải là quá đáng không? Hay hỏi cách khác: ông có tiếc vì phải bỏ quá nhiều như vậy không? Thưa chắc chắn là không, vì chính ông tự nguyện làm như thế. Vả lại cái mà ông bỏ đi so với cái mà ông nhận được, tức là ơn tha thứ, thì chẳng thấm tháp vào đâu cả. Cho nên ông không hề tiếc. Hơn nữa, cuộc trở lại nào mà không phải từ bỏ.
- Chúng ta hãy dừng lại ở tư tưởng chót này: Bất cứ cuộc trở lại nào cũng đòi phải từ bỏ. Một người từ trước tới giờ không có đạo, tin vào đủ thứ mê tín dị đoan, nay trở lại theo đạo thì phải từ bỏ tất cả những mê tín dị đoan ấy chỉ còn tin vào một mình Chúa duy nhất mà thôi. Một người bấy lâu nay không giữ đạo, sống bê tha tội lỗi, nay muốn ăn năn trở lại thì cũng phải từ bỏ con đường tội lỗi cũ. Đó là những cuộc trở lại lớn. Còn những cuộc trở lại nhỏ hơn thì cũng thế, cũng phải từ bỏ. Từ trước tới giờ, anh làm ăn bằng những mánh khóe gian lận, nay anh muốn trở lại sống tốt thì tức nhiên anh phải bỏ những món tiền gian lận ấy. Chứ không thể nào vừa muốn sống đàng hoàng mà vừa tiếp tục những kiểu làm ăn gian lận cũ được. Hay từ trước tới giờ anh quen nhậu nhẹt rượu chè say sưa, làm cho gia đình buồn khổ, làm cho phẩm cách mình bị hạ thấp, nay anh muốn sống tử tế lại thì đương nhiên anh phải bỏ tật rượu chè say sưa ấy. Có một số người ghiền rượu đã nói rằng: bỏ rượu thì nếu cố gắng một chút chắc sẽ bỏ được, nhưng cái khó là như người ta nói, muốn bỏ rượu thì phải bỏ bạn luôn. Gương từ bỏ hết sức quảng đại của ông Dakêu là câu trả lời cho thắc mắc đó: Nếu thực tình muốn sống đàng hoàng hơn, thì phải thực sự bỏ rượu, mà nếu vì bỏ rượu mà mất bạn, thì cũng phải đành mất vậy thôi. Bởi vì chân lý đã được nêu rõ trong bài Phúc Âm này: bất cứ cuộc trở lại nào, dù lớn dù nhỏ, cũng đòi ta phải từ bỏ hết.
Niềm vui sướng của ông Dakêu khi trở lại là một niềm vui rất lớn. Lớn đến nỗi ông trở thành một con người hết sức hào phóng, quảng đại bỏ đi hơn phân nửa tài sản của mình mà cũng không tiếc. Nếu chúng ta trở lại từ những gì xấu xa khuyết điểm cũ của ta để sống đàng hoàng tử tế hơn, thì chắc chúng ta cũng sẽ hưởng được niềm vui sướng to lớn như vậy trong tâm hồn. Nhưng, như Phúc Âm hôm nay dạy, bất cứ cuộc trở lại nào cũng đòi hỏi phải từ bỏ. Vậy, trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta hãy xin Chúa ban thêm ơn giúp chúng ta can đảm từ bỏ, để chúng ta được vui mừng trong niềm vui trở lại.
2. Có một cái nhìn như thế
Nhiều đệ tử đang theo học Thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thoả thích.
Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo:
- Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy?
Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.
Thiên Chúa không những tế nhị, dịu dàng, và nhân từ như thầy Sengai mà Người còn khoan dung, tha thứ và yêu thương những con người tội lỗi.
Ông Gia kêu là một trưởng ty thuế vụ thành Giêricô, một người giàu có vì lạm thu bất chính. Ông bị liệt vào số những kẻ tội lội, bị khai trừ và khinh bỉ. Chúa Giêsu không nhìn ông bằng con mắt ấy, Người ngước nhìn ông đang ngồi trên cây sung; một cái nhìn thân thiện, có sức cảm hoá tâm hồn; một cái nhìn nhân từ như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầy chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.
Người nói với ông: "Này Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!" (Lc 19,5). Hạnh phúc quá bất ngờ: Người không chỉ biết ông đang ở trên cây mà còn biết cả tên ông. Người không chỉ muốn đến thăm mà còn xin ở lại nhà ông. Ông chỉ có một ao ước nhỏ nhoi là được nhìn thấy Người, nhưng Người lại cho ông cả một ân huệ lớn lao vượt quá lòng ông mong ước. Ông chỉ muốn thấy kẻ đã chữa cho anh mù Báctimê là người thế nào, nhưng chính Đấng ấy lại chữa lành đôi mắt tâm hồn ông.
Vâng, chính đôi mắt tâm hồn ông đã bừng sáng, để ông không chỉ thấy một con người bình thường trước mặt, nhưng còn thấy Người chính là Đấng ban ơn cứu độ, đầy lòng nhân từ và xót thương; để ông không chỉ thấy tiền bạc là tất cả nhưng còn thấy cần chia sẻ và trao ban. Ông đã quá vui mừng hứa với Chúa: "Thưa Ngài, này đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn" (Lc 19,8). Và chúa chỉ chờ có thế, để nói với mọi người: "Ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Ápraham" (Lc 19,9). Thật vậy, ở đâu có Chúa hiện diện là có ơn cứu độ, ở đâu có ơn cứu độ là có sự tha thứ. Ông Dakêu đã được thứ tha để được nhận lại làm con cái Ápraham, con cái của lòng tin, con cái của Thiên Chúa.
Và chắc chắn, không ai có thể ngăn cản ông ngồi đồng bàn với Chúa, trong bữa tiệc hân hoan ngay sau đó. Chắc chắn, ông Gia kêu không còn giàu có như trước nữa, nhưng ông sẽ hạnh phúc hơn nhiều. Chắc chắn thân xác ông vẫn lùn như xưa, nhưng tâm hồn ông đã cao thượng hơn gấp bội. Những người được Chúa "tìm đến và cứu chữa" bao giờ cũng trỗi vượt trong nhân cách và kiên vững trong lòng tin.
Lạy Chúa, có rất nhiều người cần chúng con nhìn họ với cái nhìn của Chúa. Có rất nhiều người mong chúng con ghé thăm.
Xin cho chúng con một tấm lòng khoan dung như Chúa, và một tâm hồn quảng đại như Dakêu, để cả thế giới này trở nên con cái Ápraham, và được hưởng nhờ ơn cứu độ của Chúa. Amen.
3. Hoán cải bằng con tim
Chắc hẳn Dakêu đã nghe người ta nói nhiều điều tốt về Chúa Giêsu. Nhưng ông muốn chính mình gặp Ngài, lý do thứ nhất là để xem tướng mạo Ngài ra sao, và lý do thứ hai quan trọng hơn là để biết con người của Ngài thế nào.
Hôm đó cũng có rất đông người muốn nhìn thấy Chúa Giêsu. Họ ở cạnh Ngài, họ bao quanh Ngài. Còn Dakêu thì không đến gần được, ông phải trèo lên một cây sung. Thế mà Chúa Giêsu lại đặc biệt để ý tới ông. Thật sung sướng khi được người khác để ý tới.
Tuy nhiên, để ý tới ai không hẳn chỉ là để chăm sóc hay khen ngợi người đó. Nếu người đó là kẻ xấu thì có thể người ta để ý tới để mà dò xét hay khiển trách. Dakêu là người xấu, nhưng Chúa Giêsu để ý tới ông không phải để khiển trách. Ngài dừng lại và nhìn lên ông. Dakêu hiểu là Chúa Giêsu quan tâm đến ông. Được để ý tới là sung sướng, được quan tâm lại càng sung sướng hơn.
Chúa Giêsu còn nói với Dakêu nữa. Đặc biệt là Ngài không nói một lời nào về những tội lỗi của ông. Thay vào đó Ngài gọi đích danh ông "Này ông Dakêu". Rồi Ngài gọi ông xuống "Xuống mau đi". Ngài còn ngỏ ý muốn đến trọ nhà ông "Hôm nay tôi phải ở lại nhà ông". Điều này không ai ngờ. Dakêu không ngờ, mà tất cả mọi người có mặt ở đó cũng không thể ngờ một người đạo đức như thế mà lại đến trọ nhà một người tội lỗi công khai. Dakêu sung sướng quá, "Ông vội vàng trèo xuống và mừng rỡ đón rước Ngài". Ban đầu ông chỉ mong nhìn được Chúa Giêsu một cái thôi. Bây giờ ông được nhìn Ngài mặt đối mặt và sắp được ở chung với Ngài ngay trong nhà của ông nữa.
Dakêu đã biết chẳng những tướng mạo mà cả con người của Chúa Giêsu. Ông còn biết được tâm hồn dạt dào yêu thương của Ngài nữa.
Và khi nhìn thấy tâm hồn Chúa Giêsu rồi, Dakêu cũng nhìn lại tâm hồn của ông: một tâm hồn đầy tội lỗi. Ông thấy đời mình bấy lâu nay như một sa mạc khô cằn, thế mà hôm nay Chúa Giêsu lại đến, như một cơn mưa rào.
Thế là Dakêu hoán cải. Cuộc hoán cải thể hiện bằng những hành động cụ thể: đền bồi tất cả những thiệt hại đã gây ra cho người khác, và phân chia tài sản mình cho những người nghèo. Đây không phải là hoán cải chỉ bằng ý muốn mà bằng cả con tim: Dakêu đã biết xót xa cho những người bị ông làm thiệt hại, và biết yêu thương những người nghèo khổ. Đây chính là sự hoán cải thật, vì con tim có hoán cải thì cuộc đời mới hoán cải thật.
Con tim của Dakêu hoán cải nhờ Chúa Giêsu đã để ý tới ông, quan tâm ông, đối xử nhẹ nhàng với ông. Goethe đã viết: "Hãy đối xử với một người như người ấy , và người ấy sẽ xấu hơn. Hãy đối xử với người ấy như người ấy phải là, hoặc như người ấy muốn là, và người ấy sẽ tốt hơn. Bởi vì những ước muốn trong chúng ta chính là phần tốt nhất của con người chúng ta".
Chúa Giêsu hiểu rằng những việc làm xấu của Dakêu không phải là toàn phần con người của ông; Ngài hiểu trong ông còn có phần tốt, phần muốn làm điều tốt và có khả năng làm những điều tốt ấy. Ngài đã khơi lên chính cái phần tốt ấy.
Cuộc hoán cải của Dakêu là hoán cải con tim, là hướng con tim về điều tốt.
Cũng giống như Dakêu, trong con người chúng ta cũng có phần tốt mặc dù có thể phần tốt ấy xưa nay bị những việc xấu chèn ép và chưa phát huy ra. Hãy hoán cải con tim bằng cách để Chúa để ý đến ta, quan tâm ta, nói với ta, trọ trong tim ta và đánh động con tim ta.
4. Từ đứng nhìn đến tham dự
Nhiều khi chúng ta xem Tivi, thấy những cảnh nghèo, cảnh khổ, cảnh tai nạn… Chúng ta cảm động. Nhưng chỉ một thoáng thôi. Sau đó tới phần chiếu phim, chúng ta say sưa theo dõi chuyện phim, những xúc động kia đã tan biến đâu mất. Nghĩa là chúng ta thường là khách bàng quan, là khán giả.
Ông Dakêu cũng thế. Hôm đó ông muốn làm khán giả. Ông trèo lên một cành cây để nhìn xuống. Ở vị trí đó, ông có thể nhìn Chúa Giêsu và nhìn mọi người mà không bị ai nhìn ông. Ông là một người ngoài cuộc, không cùng đám đông đi theo Chúa Giêsu. Cũng như trước đó ông đã là một người ngoài cuộc: ông giàu có, đầy đủ, không cần đến ai, cũng không muốn dây dưa làm chi đến đa số người khác nghèo nàn thiếu thốn.
Nhưng điều gì đã xảy ra? Chúa Giêsu gọi Dakêu xuống, Ngài ngỏ ý đến trọ nhà ông. Nghĩa là Ngài kéo ông ra khỏi tư thế khán giả bàng quan để nhập cuộc và tham gia. Và như chúng ta thấy, Dakêu đã tham gia tích cực như thế nào.
5. Dakêu, tấm gương hoán cải
Câu chuyện về ông Dakêu có nhiều chi tiết giúp chúng ta hiểu thế nào là hoán cải thật:
- Ông tích cực đi tìm Chúa: "Ông chạy tới phía trước, leo lên một cây sung".
- Khi nghe tiếng Chúa gọi, ông đã nhanh chóng và vui mừng đáp lại: "Ông vội vàng tụt xuống"
- Ông còn "vui mừng đón rước Ngài về nhà".
- Ông nhìn nhận tội lỗi của mình và còn thứ nhận trước mặt mọi người.
- Ông đền bù những thiệt hại mình gây cho kẻ khác
- Hơn nữa, Ông còn lấy tài sản bố thí cho người nghèo.
Hoán cải thật là từ bỏ những tội lỗi, quảng đại đáp lại tiếng Chúa và tổ chức lại đời sống mới.

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giê-su Thánh Thể, Chúa là Ðấng chúng con hết lòng tôn thờ. Chúa là Ðấng ban tặng cho chúng con sự sống và niềm tươi vui hoan lạc. Xin cho chúng con mỗi lần đón rước Mình Máu Thánh Chúa cũng được đổi mới tâm hồn nên thanh sạch, không vương vấn tội lỗi. Xin giúp chúng con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự, để chúng con cũng biết hiến dâng mạng sống mình thành niềm vui cho tha nhân.
Lạy Chúa Giê-su mến yêu, Chúa đã ban cho Gia Kêu niềm vui được sống bên Chúa. Chúa còn cho Gia Kêu cơ hội tìm thấy niềm vui qua sự chia sẻ cơm bánh cho những người nghèo đói. Xin cho chúng con biết nắm lấy chìa khóa của sự bình an là lòng quảng đại, để chúng con biết sống bác ái với tha nhân, biết tìm niềm vui qua những nghĩa cử yêu thương mà chúng con dành cho nhau.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết hoán cải mình mỗi ngày nên hoàn thiện trong tình nghĩa với Chúa. Xin cho chúng con đừng bao giờ đùa giỡn hay lạm dụng lòng nhân từ của Chúa, nhưng luôn biết cộng tác vơi ơn Chúa và thành tâm trở về với Chúa. Xin đừng để lòng tham khiến chúng con xa Chúa và sống ti tiện với anh em. Amen.