Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Báo tin cho anh em

Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa.Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy.Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta". Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Thánh Mátthêu thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục Sinh:
1. (Các phụ nữ đến mồ, thấy mồ trống. Gặp Thiên Thần, Thiên Thần cho hay Chúa Giêsu đã sống lại và bảo các bà đi báo tin cho các môn đệ cùng bảo họ Chúa Giêsu chờ họ tại Galilê). Trong tâm trạng vừa sợ vừa vui mừng, các bà chạy đi báo tin cho các môn đệ.
Tâm trạng sợ hãi: không phải là sợ hãi, mà là nỗi sợ tôn giáo, tâm trạng của người ý thức Thiên Chúa đang có mặt và hoạt động. Vậy các bà “sợ” nghĩa là các bà ý thức Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu sống lại.
Vui mừng: vì Thầy mình đã sống lại.
2. Đang khi các bà chạy đi báo tin thì Chúa Giêsu hiện ra. Câu đầu tiên của Ngài là “đừng sợ”. Rồi Ngài lặp lại lời Thiên Thần: Hãy đi báo tin cho các môn đệ, bảo họ rằng Ngài chờ họ ở Galilê.
“Đừng sợ”: Trong Thánh Kinh, từ Cựu Ước tới Tân Ước, khi hiện ra với loài người, Thiên Chúa (hay Thiên Thần) đều nói “đừng sợ” (x. St 15,1 26,24 46,3; Tl 6,23; Lc 1,12.30 2,10; Mt 14,27…). Nếu như “sợ” là tâm trạng của con người khi biết mình đang ở trước mặt Thiên Chúa vì thấy mình bất xứng, thì lời nói “đừng sợ” có nghĩa là Thiên Chúa tự xóa khoảng cách giữa Ngài với loài người; hơn nữa, Thiên Chúa đem lại cho loài người sự bình an và vui mừng.
Khi nói về các môn đệ, Chúa Giêsu gọi họ là “anh em”: sự Phục Sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Ngài với các môn đệ lên một bậc: họ trở thành anh em của Ngài.
3. Phản ứng của giới thượng tế và kì lão: đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc họ xuyên tạc sự thật về Chúa Giêsu sống lại.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. “Đừng sợ”: từ nỗi “sợ hãi” trong lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết, các bà đã chuyển sang “kính sợ” khi nhận thấy quyền năng Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” đi kèm với nỗi “hớn hở vui mừng”. Khi ta thực sự tin vào quyền năng Chúa, ta sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí còn có thể “hớn hở vui mừng” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.
2. Một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom củi trong rừng. Ông nghĩ về thân phận mình và cảm thấy chán chường. Ông ném bó củi xuống và than vãn: “cuộc sống cơ cực quá, không thể chịu nổi nữa! Ước gì thần chết rước tôi đi!”.
Vừa nói xong thần chết xuất hiện với bộ xương trong chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: “Ta nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều gì?”. Ông già kinh sợ nói: “Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai không?” (Góp nhặt).
3. Chúa Giêsu Phục Sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài: sự Phục Sinh của Chúa đã cứu chuộc tội lỗi của loài người, ban lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu.
4. Một giáo viên cấp II đang vào sổ hai cậu học sinh mới chuyển trường. Cô thấy tên họ của chúng giống nhau, dáng người và quần áo như nhau nên hỏi:
- Hai anh em sinh đôi phải không?.
- Không.
Rồi cô đọc thấy ngày tháng năm sinh của chúng chỉ cách nhau sáu tháng. Cô lại hỏi:
- Hai anh em họ phải không?.
- Không, chúng em là anh em ruột.
- Ồ, cô nghĩ có sự nhầm lẫn trong việc ghi ngày sinh của các em. Hai anh em về nói mẹ ghi lại ngày sinh của mình rồi đưa lại cho cô vào sáng mai nhé?
- Tại sao vậy?
- Bởi vì nếu hai anh em không sinh đôi mà lại là anh em ruột, thì Nam không thể lớn hơn Tâm có sáu tháng.
Hai cậu nhìn nhau. Rồi Nam quay lại, mỉm cười nói với cô giáo: “Nhưng em không phải là người lớn hơn; vì cô biết đó, một trong hai chúng em là con nuôi. Nhưng chúng em không biết ai là con nuôi.” (Góp nhặt).
5. “Phúc Âm hôm nay đề cập tới hai thái độ khác nhau trước biến cố Phục Sinh: Một làcủacác phụ nữ, một là của nhóm lính canh. Đối diện với ngôi mộ trống, các phụ nữ nhận ra dấu chỉ của Tin Mừng Chúa Phục Sinh và khởi điểm cho niềm hy vọng. Tuy lo âu nhưng họ cũng vui mừng vội vã đi báo tin cho các môn đệ. Còn đối với nhóm lính canh, ngôi mộ trống đã không là khởi điểm của sự tìm kiếm và tin tưởng, mà còn khiến họ xa rời niềm tin, chỉ vì sợ hãi và vì chút lợi lộc…
Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Chúa Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này… Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội và đi ngược lại với Phúc Âm, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô và về Giáo Hội” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
6. Tình yêu đã chiến thắng; Sự thật đã lên ngôi.
Bạn và tôi hãy xóa đi hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được Phục Sinh nơi Ngài.
Ước gì niềm vui của Đấng Phục Sinh tràn ngập trong con, để con đem sinh khí cho người tuyệt vọng, đem nụ cười cho kẻ khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui hạnh phúc đến cho mọi người, xây thiên đàng ngay trần thế hôm nay.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi lần chúng con được rước Chúa là một lần chúng con được đón nhận chính sức sống Phục sinh của Chúa tuôn trào trong chúng con. Xin cho chúng con được tràn ngập niềm vui như xưa Chúa đã ban cho các người phụ nữ ra thăm mồ Chúa trong ngày Chúa sống lại.
Ngày đó, họ ra mồ với tâm trạng buồn phiền lo âu, và thất vọng, nhưng khi hay tin Chúa đã sống lại, nỗi lo âu đã trở thành niềm vui. Sự thất vọng, buồn phiền đã tiêu tan để nhường lối cho hy vọng và tươi vui. Ước gì niềm vui được đón rước Chúa Phục sinh ngự đến trong tâm hồn chúng con lúc này, cũng biến đổi chúng con thành những chứng nhân cho niềm hy vọng, để chúng con mang niềm vui đến cho những ai đang tuyệt vọng, đem nụ cười đến cho kẻ khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui hạnh phúc đến cho mọi người, và biết kiến tạo hạnh phúc thiên đàng ngay trần thế hôm nay qua những nghĩa cử hy sinh, bác ái, và vị tha.
Nguyện xin Chúa phục sinh chúc lành cho những ước nguyện của chúng con. Amen.

Thứ Sáu, 29 tháng 3, 2013

Sống - Chết

Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn.Thấy hòn đá đã lăn ra khỏi mồ,nhưng bước vào, các bà không thấy xác Chúa Giêsu.Đang khi các bà còn ngơ ngác không hiểu việc đó, thì có hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói.Các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất, thì hai người lên tiếng bảo: "Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết?Người không còn ở đây. Người đã sống lại, các bà hãy nhớ lại Người đã nói với các bà thế nào khi Người còn ở xứ Galilêa.Người đã nói: Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại".Và các bà nhớ lại những lời Người đã nói.
Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác. Các bà đó là Maria Mađalêna, Gioanna, Maria mẹ Giacôbê; và những người nữ khác cùng đi với họ cũng nói như vậy với các tông đồ. Nhưng những lời đó, các ông cho là truyện vớ vẩn, nên các ông không tin. Dầu vậy Phêrô cũng đứng dậy chạy ra mồ, nhưng khi cúi xuống nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm nằm đó và ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự đã xảy ra.
Suy niệm: 
Bài Phúc Âm đêm vọng Phục Sinh tường thuật lại sự kiện các phụ nữ đến thăm mộ Chúa từ sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần. Các bà chứng kiến cảnh tảng đá đậy cửa mộ bị lăn ra ngoài và thi hài Chúa Giêsu không còn ở đó nữa. Thấy vậy các bà rất phân vân, lo sợ. Tuy nhiên Thiên Thần trấn an các bà “Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? Người không còn ở đây. Người đã sống lại...
Nhờ đó các bà tin nhận Chúa đã Phục Sinh. Các bà hân hoan trở về báo tin cho các tông đồ, dù rằng các ông vẫn còn nghi ngờ.
Trình thuật của bài Phúc Âm Phục Sinh tối nay muốn gởi đến chúng ta hai sứ điệp quan trọng sau.
Sứ điệp I: Chúa Phục Sinh mang đến niềm vui.
Trước nỗi lo sợ hoang mang của các bà phụ nữ, Thiên Thần Chúa đã trấn an các bà: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại...”
Biến cố Chúa Giêsu chịu chết, đã gây nên cho các bà phụ nữ cũng như hầu hết các tông đồ một nỗi hoang mang và lo sợ. Chính vì thế mà ngay khi Phục Sinh, Chúa muốn trấn an họ bằng cách làm cho các bà phụ nữ nhớ lại Lời Người đã nói khi còn sống: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Nhất là qua sự kiện ngôi mộ trống và lời xác minh của các Thiên Thần, các bà đã tin nhận Chúa đã sống lại.
Như thế, sự kiện Chúa Phục Sinh mang đến cho các bà phụ nữ cũng như cho tất cả chúng ta một sứ điệp lớn lao, sứ điệp của niềm vui.
  • Vui bởi lẽ từ nay thập giá sẽ trở thành Thánh Giá vinh quang.
  • Vui bởi lẽ người đời chỉ có thể giết được thân xác, nhưng không giết được linh hồn.
  • Vui bởi vì từ nay các thế lực thống trị trần gian: Ma quỷ, thế gian, thần chết đã bị đánh bại nơi Đức Chúa Giêsu Kitô Phục Sinh. Do đó ai tin nhận Người cũng sẽ có được niềm vui chiến thắng vinh quang ấy.
Sứ điệp II: Nhiệm vụ loan truyền Phúc Âm, tin mừng Chúa Phục Sinh
Sau khi nhận ra Chúa Phục Sinh, nhờ sự soi dẫn của các Thiên Thần và Lời Chúa đã nói, các bà như được thúc đẩy để thực thi sứ mạng loan truyền Phúc Âm. “Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác.”
Tin mừng Chúa Phục Sinh phải được loan báo cho mọi người, đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan truyền Phúc Âm” (Ga 10,27).
Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên Thánh Giá và đã Phục Sinh để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đó là tin mừng lớn lao mà chúng ta phải tin nhận và loan báo cho mọi người.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã đi đến cùng con đường vâng phục Thánh ý Chúa Cha, và đã san sẻ đến cùng thân phận kiếp người. Xin cho chúng con, từ nay, dù trong bất cứ cảnh ngộ nào của cuộc sống, cũng đừng bao giờ lãng quên rằng: ‘Chúa đã chết vì yêu con’. Để từ nay, chúng con biết sống cho Chúa và chỉ chết cho Chúa mà thôi.
Xin cho chúng con biết tin tưởng vào sức mạnh và quyền năng của Chúa Phục Sinh mà dám chết đi cho tội lỗi, xác thịt và thế gian để được sống lại vinh hiển với Chúa.
Xin cũng cho chúng con biết nổ lực loan truyền Phúc Âm, tin mừng Chúa Phục Sinh cho mọi người bằng lời nói, hành vi và cuộc sống gương mẫu, nhằm xua tan bóng tối sợ hãi của hận thù, chia rẽ và ích kỉ. Biết tích cực soi rọi ánh sáng Phục Sinh vào đêm đen của bất công và chết chóc nhờ đó mọi người đón nhận được ánh sáng tình thương, tha thứ, niềm vui và sự sống mà chính Chúa Phục Sinh đem đến, qua đời sống chứng tá của chúng ta. Amen.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Mọi sự hoàn tất


Thứ Sáu Tuần Thánh - Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa
Lời Chúa: 
Ga 18, 1 - 19, 42
LM: Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
NK: Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đấy với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
LM: "Các ngươi tìm ai?"
NK: Chúng thưa lại:
M-DC: "Giêsu Nadarét".
NK: Chúa Giêsu bảo:
LM: "Ta đây".
NK: Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:
LM: "Các ngươi tìm ai?"
NK: Chúng thưa:
M-DC: "Giêsu Nadarét".
NK: Chúa Giêsu đáp lại:
LM: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi".
NK: Như thế là trọn lời đã nói: Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:
LM: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!"
NK: Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:
M-DC: "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?"
NK: Ông đáp:
M-DC: "Tôi không phải đâu".
NK: Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:
LM: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
NK: Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
M-DC: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư".
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?"
NK: Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:
M-DC: "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?"
NK: Ông chối và nói:
M-DC: "Tôi không phải đâu".
NK: Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
M-DC: "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?"
NK: Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
M-DC: "Các ngươi tố cáo người này về điều gì".
NK: Họ đáp:
M-DC: "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
NK: Philatô bảo họ:
M-DC: "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
NK: Nhưng người Do-thái đáp lại:
M-DC: "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả".
NK: Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
M-DC: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
NK: Philatô đáp:
M-DC: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này".
NK: Philatô hỏi lại:
M-DC: "Vậy ông là Vua ư?"
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
NK: Philatô bảo Người:
M-DC: "Chân lý là cái gì?"
NK: Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
M-DC: "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?"
NK: Họ liền la lên:
M-DC: "Không phải tên đó, nhưng là Baraba".
NK: Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người, và chúng mặc cho Người một áo đỏ. Rồi chúng đến gần Người và nói:
M-DC: "Tâu Vua Do-thái!"
NK: Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
M-DC: "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án".
NK: Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
M-DC: "Này là Người".
NK: Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:
M-DC: "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!"
NK: Philatô bảo họ:
M-DC: "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông".
NK: Người Do-thái đáp lại:
M-DC: "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa".
NK: Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
M-DC: "Ông ở đâu đến?"
NK: Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
M-DC: "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?"
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn".
NK: Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
M-DC: "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
NK: Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
M-DC: "Đây là vua các ngươi".
NK: Nhưng họ càng la to:
M-DC: "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!"
NK: Philatô nói:
M-DC: "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?"
NK: Các thượng tế đáp:
M-DC: "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
NK: Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh. Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
M-DC: Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'".
NK: Philatô đáp:
M-DC: "Điều ta đã viết là đã viết".
NK: Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
M-DC: "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
NK: Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó. Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
LM: "Hỡi Bà, này là con Bà".
NK: Rồi Người lại nói với môn đệ:
LM: "Này là Mẹ con".
NK: Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
LM: "Ta khát!"
NK: Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
LM: "Mọi sự đã hoàn tất".
NK: Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
LM: (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
NK: Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Thánh Gioan có một cái nhìn đặc biệt với cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu. Thánh Giá không chỉ là con đường dẫn tới vinh quang:
- Đó là “giờ” mà từ lâu Chúa Giêsu hằng nghĩ tới và chuẩn bị, là thời điểm vinh quang mà vận động viên marathon chạy về tới đích để đoạt chiếc cúp vàng.
- Do đó Gioan cho thấy Chúa Giêsu bước vào cuộc chịu nạn một cách đầy ý thức và chủ động. Gioan luôn lập đi lập lại những chữ “Ngài biết”. Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy đến. Ngài luôn làm chủ những diễn biến.
- Trên Thánh Giá Chúa Giêsu trở thành “Vua” và lấy lại vinh quang Ngài vốn có nơi Chúa Cha.
Từ Thánh Giá, Ngài:
+ Kéo mọi người lên với Ngài.
+ Sinh ra Hội Thánh.
+ Ban cho Hội Thánh một người Mẹ là Đức Trinh Nữ Maria.
+ Tuôn tràn thánh linh xuống cho Hội Thánh.
Bởi đó, khi chúng ta cùng Gioan đi theo những chặng đường Thánh Giá Chúa Giêsu, tâm tình của chúng ta phải có lạc quan và biết ơn.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Chính vì Chúa Giêsu luôn ý thức và chủ động trong mọi diễn biến của cuộc chịu nạn mà cuộc chịu nạn này mới có giá trị. Những đau khổ của chúng ta cũng thế.
2. Đối với Chúa Giêsu, Thánh Giá là vinh quang. Thánh Phalô cũng nói “Vinh dự của chúng ta là Thánh Giá Đức Kitô”. Xin Chúa giúp chúng con có thể nói được như thế.
3. Khi George Nixon Biggs làm Thống Đốc bang Massachusetts, có 3 người bạn của ông đi viếng thánh địa. Họ leo lên đỉnh núi Gôngôtha, bẻ một nhánh cây làm gậy. Khi trở về, họ tặng vị Thống Đốc cây gậy và nói: “Chúng tôi muốn ngài biết cho rằng, khi đứng trên đỉnh đồi Canvê, chúng tôi đã nghĩ tới ngài”. Thống Đốc hết lòng cảm ơn họ, ưu ái nhận quà tặng và nói thêm: “Nhưng thưa các bạn, tôi còn nghĩ xa hơn: ở đó, có một Đấng khác cũng đã nghĩ tới tôi.” (Góp nhặt).
4. Có một lần nhà truyền giáo hỏi lớp Giáo Lý Thánh Kinh: “Nếu các bạn thấy một nhóm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có Đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài?” Nhiều người bảo không biết. Nhưng một em bé nói: “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài.” (Góp nhặt).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa không phải là “một kết liễu” nhưng là “một hoàn tất”. Chúa đã chu toàn sứ mệnh Chúa Cha trao phó cách tuyệt hảo. Xin cho chúng con cũng biết chu toàn bổn phận của người Kitô hữu, dám hy sinh và hành động theo những đòi hỏi của Chúa cho dù phải đi vào con đường Thập Giá. Amen.

THỨ NĂM TUẦN THÁNH. THÁNH LỄ TIỆC LY

Lời Chúa: Ga 13, 1-15
Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".
Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
Những lời trong bản văn Tin Mừng vừa được công bố nhấn mạnh rõ ràng bầu khí Ngày Thứ Năm Tuần Thánh. Những lời này cho chúng ta một cái nhìn thấu suốt bên trong điều Ðức Kitô cảm nhận "trong đêm bị phản bội" (1Cor 11,23), và những lời này linh hứng chúng ta tham gia sốt sắng với lòng cảm tạ của mỗi người trong nghi thức long trọng mà chúng ta đang cử hành.
Chiều nay, chúng ta bắt đầu cuộc Vượt Qua của Ðức Kitô, biến cố hình thành nên giây phút bi đát và chung cuộc cho sự hiện diện trần thế được chuẩn bị và mong đợi từ lâu của Ngôi Lời. Ðức Giêsu đã đến giữa chúng ta không phải để được phục vụ nhưng để phục vụ, và Ngài mang trên vai những thăng trầm và hy vọng của nhân sinh trong mọi thời đại. Tiên đoán trước cách nhiệm mầu về lễ hy sinh trên Thánh Giá, tại phòng Trên Gác, Ngài muốn ở lại với chúng ta trong hình bánh và rượu, và ký thác cho các môn đệ cũng như những người tiếp bước các ngài sứ mạng và quyền năng để làm sống mãi kỷ niệm sống động và rõ nét về biến cố đó trong bí tích Thánh Thể.
Việc cử hành này, vì vậy, lôi cuốn cách nhiệm mầu tất cả chúng ta và đưa chúng ta vào Tam Nhật Thánh, thời gian trong đó chúng ta cũng sẽ học từ Ðấng "là Thầy và là Chúa" để "giang cánh tay chúng ta ra" và đi ra bất cứ nơi đâu chúng ta được kêu gọi thực thi di chúc của Cha trên trời.
2. "Hãy làm việc này để nhớ đến Thầy" (1Cor 11,24-25)
Với lệnh truyền thúc giục chúng ta lặp lại cử chỉ của Ngài, Ðức Giêsu hoàn tất việc thiết lập Bí Tích của Bàn Thờ. Khi Ngài rửa chân xong cho các môn đệ, một lần nữa, Ngài mời gọi chúng ta hãy bắt chước Ngài: "Thầy đã nêu gương cho các con, để các con cũng làm như Thầy đã làm cho các con" (Ga 13,15). Bằng cách này, Ngài thiết lập một sự liên kết thân mật giữa bí tích Thánh Thể, bí tích của quà tặng hy sinh của Ngài, và huấn lệnh yêu thương khiến ta chào đón và phục vụ anh chị em mình.
Việc dự phần vào bàn tiệc của Chúa không thể tách rời khỏi bổn phận yêu thương anh chị em chung quanh ta. Mỗi lần chúng ta tham dự bàn tiệc Thánh Thể, chúng ta cũng nói "Amen" trước Mình và Máu Thánh Chúa. Khi làm như thế chúng ta cam kết thực hiện điều Ðức Kitô đã làm, là "rửa chân" cho anh chị em mình, trở nên một hình ảnh thực sự và tỏ tường của Ðấng "đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ" (Phil 2,7).
Tình yêu là di sản cao quý nhất mà Ðức Kitô để lại cho những ai được Ngài kêu gọi theo Ngài. Chính tình yêu của Ngài, được chia sẻ bởi các môn đệ, là điều được ban tặng cho tất cả nhân loại trong buổi chiều nay.
3. "Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình" (1Cor 11,29).
Thánh Thể là một ban tặng cao cả, nhưng cũng là một trách nhiệm lớn lao cho những ai tiếp nhận. Ðứng trước Phêrô, người đã từ chối không chịu để được rửa chân, Ðức Giêsu đã nhấn mạnh đến nhu cầu phải nên thanh sạch để có thể dự phần vào bàn tiệc Thánh Thể.
Truyền thống của Giáo Hội luôn nhấn mạnh đến sự liên kết giữa bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Tôi cũng muốn tái xác nhận điều này trong Thư Gởi Cho Các Linh Mục Ngày Thứ Năm Tuần Thánh năm nay, bằng cách mời gọi các linh mục trên hết hãy tái khám phá vẻ đẹp của Bí Tích Thứ Tha. Chỉ có cách này các ngài mới có thể giúp các tín hữu, những người được phó thác cho sự chăm sóc mục vụ của các ngài, tái khám phá Bí Tích này.
Bí tích Hòa Giải tái tạo lại cho những người đã chịu phép rửa tội ân sủng thánh thiện mà họ đánh mất do những tội trọng, và làm cho họ xứng đáng lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Hơn thế nữa, qua cuộc đối thoại trực tiếp xảy ra thông thường khi cữ hành bí tích này, bí tích này còn đáp ứng nhu cầu truyền thông cá nhân, một điều mà ngày nay, càng ngày càng trở nên khó khăn như một hệ quả của bước tiến cuồng nhiệt của xã hội kỹ thuật.
Qua hành động soi sáng và kiên nhẫn của mình, cha giải tội có thể đem hối nhân vào trong sự hiệp thông sâu sắc với Ðức Kitô, sự hiệp thông do Bí Tích này phục hồi và Bí Tích Thánh Thể đưa đến mức đầy hoa trái.
Cầu mong sao cho sự tái khám phá Bí Tích Hòa Giải giúp tất cả các tín hữu tiến gần đến bàn tiệc Mình và Máu Thánh Chúa trong niềm kính trọng và với lòng sốt mến.
4. "Vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1)
Chúng ta hãy trở lại Phòng Trên Gác trong tinh thần! Nơi đây chúng ta tìm thấy lại chính chúng ta trong đức tin chung quanh Bàn Thờ của Chúa, khi chúng ta cử hành Bữa Tiệc Ly. Lặp lại những cử chỉ của Ðức Kitô, chúng ta công bố rằng cái chết của Ngài đã cứu chuộc nhân loại khỏi tội lỗi và tiếp tục mạc khải niềm hy vọng về một tương lai của ơn cứu độ cho những người nam, người nữ của mọi thời đại và của mọi nơi chốn.
Các linh mục được kêu gọi để tiếp tục nghi thức mà, dưới hình bánh và rượu, thể hiện lễ hy sinh của Ðức Kitô, trung thực, thật sự và thiết thực, cho đến ngày sau hết. Tất cả các Kitô hữu được mời gọi để trở nên những đầy tớ khiêm hạ và tế nhị của anh chị em họ, để hợp tác trong ơn cứu độ của họ. Chính là nhiệm vụ của mỗi tín hữu phải công bố qua chính cuộc sống của họ rằng Con Thiên Chúa đã yêu thương chính họ "đến cùng". Chiều nay, trong sự yên lặng đầy nhiệm mầu, đức tin chúng ta được nuôi dưỡng.
Hiệp thông với toàn thể Giáo Hội, chúng con công bố cái chết của Ngài: Lạy Chúa, Ðầy lòng biết ơn, chúng con đã nếm niềm vui sự phục sinh của Ngài. Ðầy lòng tín thác, chúng con cam kết sống trong niềm trông mong Ngài lại đến trong vinh quang. Hôm nay và mãi mãi, Lạy Chúa Kitô, Ðấng Cứu Chuộc chúng con. Amen!

Thứ Ba, 26 tháng 3, 2013

Phản bội

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tếvà thưa với họ: "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc.Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người.
Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" Chúa Giêsu đáp: "Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người trả lời: "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"
Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có phải con chăng?" Chúa đáp: "Đúng như con nói".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho ta thấy tấm lòng của Chúa Giêsu trước việc Giuđa phản bội:
Ngài đau buồn: “Kẻ giơ tay cùng chấm đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy”. “Cùng chấm đĩa” đó là hình ảnh của người rất thân trong gia đình. Thực ra không phải một mình Giuđa cùng chấm đĩa, mà tất cả 12 môn đệ. Nhưng bị bán đứng bởi người thân là một điều rất đau lòng.
Ngài tiếc xót: “khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn”. Các nhà chú giải bảo đừng dựa vào câu này để nói Chúa Giêsu nguyền rủa Giuđa. Thực ra Ngài đang nói theo giọng điệu của những bài ai ca. Chúa Giêsu than tiếc vì môn đệ mình đã đi vào con đường tội lỗi.
Ngài vẫn tôn trọng: vừa trả lời thẳng cho Giuđa biết hắn là kẻ phản bội, vừa kín đáo không nói lớn kẻo người khác biết lòng dạ hắn.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Ta hãy suy gẫm về con đường của Giuđa: Hắn được Chúa yêu thương gọi làm môn đệ, chọn làm tông đồ; hắn còn được Chúa tín nhiệm giao giữ tiền; nhưng đồng tiền đã dần dần khống chế hắn (Xem bài Phúc Âm ngày thứ hai: “Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những thứ người ta bỏ vào quỹ chung” – Ga 12,6); Chúa Giêsu đã nhiều lần tế nhị đánh thức lương tâm hắn, nhưng hắn cũng không hồi tâm. Cuối cùng hắn đã đi ra lao mình vào bóng đêm.
Không ai phạm tội trọng trong một sớm một chiều. Phạm tội là cả một quá trình từ nhẹ tới nặng, do để mình bị khống chế bởi những giá trị trên thế gian, do bưng tai bịt mắt trước những tiếng nhắc nhở âm thầm của Chúa.
2. Tự do là một món quà vô cùng quý giá Chúa ban cho, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề và là một con dao hai lưỡi nguy hiểm. Xin giúp con biết sử dụng tự do.
3. Chúa rất thương Giuđa và Chúa cũng toàn năng, nhưng Chúa không thể ngăn cản Giuđa phạm tội. Bởi thế, nếu tôi chỉ cầu nguyện “Xin Chúa gìn giữ con khỏi phạm tội” thì chưa đủ. Thánh Augustinô, người được mệnh danh là “Tiến sỹ dạy về ơn sủng” đã viết “Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần con góp sức của con”.
4. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên, anh quên vặn chiếc đồng hồ trước khi đi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là tại vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến. (Góp nhặt).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin thờ Chúa đang ngự trong tâm hồn chúng con. Chúng con cảm tạ vì tình thương mà Chúa đã dành cho chúng con. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa bổ dưỡng và thêm sức mạnh cho chúng con trên hành trình hoàn thiện ơn gọi làm con Chúa nơi mỗi người chúng con.
Lạy Chúa, có lẽ Chúa rất buồn khi Giuđa nhận tấm bánh từ tay Chúa mà vẫn đang tâm bội phản cùng Chúa. Và có lẽ hôm nay Chúa cũng rất buồn khi chúng con rước Chúa, mà lòng vẫn còn ngổn ngang trăm chiều những tính toán nhỏ nhen, ích kỷ tầm thường. Chúa cũng rất buồn khi chúng con để những đam mê lầm lạc ràng buộc mọi ý chí tốt lành của chúng con.
Xin cho chúng con biết sống trọn vẹn trách nhiệm làm người của mình. Trách nhiệm phải sống như một con người biết sống đúng với phẩm giá con người. Trách nhiệm phải sống như là hình ảnh của Thiên Chúa không để những đam mê bất chính làm hoen mờ đi. Trách nhiệm phải trở nên gương sáng cho tha nhân qua đời sống chứng nhân cho Phúc Âm của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ơn hoán cải để chúng biết làm lại cuộc đời. Xin cho chúng con biết sống một cuộc đời đầy yêu thương, thánh thiện như hình ảnh ban đầu mà Chúa đã tạo dựng. Amen.


Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

Các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu

Sáu ngày trước Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu đến làng Bêtania, nơi Ladarô đã chết được Người cho sống lại.Tại đây người ta dọn bữa cho Người ăn. Martha hầu bàn. Còn Ladarô cũng là một trong những kẻ đồng bàn với Người. Bấy giờ Maria lấy một cân dầu thơm, dầu cam tùng hảo hạng, và xức chân Chúa Giêsu, rồi lấy tóc mình mà lau. Hương thơm toả đầy nhà.Một môn đệ là Giuđa Iscariô, kẻ sẽ phản nộp Người, liền nói: "Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng mà cho người nghèo khó?"Hắn nói thế không phải vì lo lắng cho người nghèo khó đâu, mà vì hắn là tên trộm cắp, lại được giữ túi tiền, nên bớt xén các khoản tiền người ta bỏ vào đó.Vậy Chúa Giêsu nói: "Hãy để mặc cô ấy làm công việc chỉ về ngày táng xác Ta.Vì các ngươi sẽ có người nghèo luôn bên cạnh các ngươi, còn Ta, các ngươi sẽ không gặp Ta mãi đâu". Có đám đông người Do-thái biết Người đang ở đó, nên tuôn đến, không những vì Chúa Giêsu, mà còn để thấy Ladarô, kẻ đã chết được Người cho sống lại. Thế là các Thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, vì tại ông mà nhiều người Do-thái đã bỏ họ và tin theo Chúa Giêsu.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Trong 3 ngày đầu Tuần Thánh, các bài đọc thứ nhất đều trích từ sách tiên tri Isaia, viết về người tôi tớ Thiên Chúa, chịu đau khổ một cách nhẫn nhục để chuộc tội cho loài người. Còn các bài Phúc Âm thì thuật lại những việc xảy ra trong những ngày cuối cùng trước khi Chúa Giêsu bước vào cuộc thương khó.
Bài Phúc Âm hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu được xức dầu tại Bêtania, “6 ngày trước Lễ Vượt Qua”, tức là 6 ngày trước khi Ngài chết. Có 3 vai đáng chú ý:
- Maria: Việc cô lấy một cân dầu thơm hảo hạng xức chân Chúa Giêsu và lấy tóc mình mà lau biểu lộ lòng yêu mến (không tiếc tiền của) và sự kính trọng (lấy tóc lau chân) đối với Ngài. Phần Chúa Giêsu thì còn coi việc làm này có ý nghĩa cử hành trước nghi thức mai táng Ngài.
- Giuđa: Lời hắn chỉ trích Maria phí của biểu lộ lòng tham tiền của hắn. Đối với Giuđa lúc này, tiền của còn quý hơn tình nghĩa đối với Chúa Giêsu. Chính vì thế thánh Gioan là người vốn tế nhị mà hôm nay còn nói “Y nói thế không phải vì lo cho người nghèo mà vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những thứ gì người ta bỏ vào quỹ chung”.
- Các thượng tế: Họ “quyết định giết luôn cả Ladarô nữa, vì tại anh mà nhiều người Do Thái đã bỏ họ và tin vào Chúa Giêsu”. Rõ ràng họ đang bị tính ghen ghét xui khiến. Nếu họ có nói lý do giết Chúa Giêsu là gì đi nữa thì việc họ muốn giết Ladarô rõ ràng là vì uy tín của Chúa Giêsu vượt hơn uy tín của họ.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Giá tiền của bình dầu thơm mà Maria đã đổ ra để xức chân Chúa Giêsu là 300 đồng, bằng lương 300 ngày công, nghĩa là gần suốt một năm. Mà gia đình Bêtania không khá giả gì. Maria yêu mến Chúa Giêsu “bằng mọi giá, chẳng tiếc bất cứ thứ gì cả. Trước đây, Maria cũng đã làm hài lòng Chúa khi bỏ hết mọi việc để ngồi bên chân Ngài và lắng nghe lời Ngài (Lc10,38-42). Lòng yêu mến Chúa của Maria không phải chỉ là tình cảm suông, cũng không chỉ thể hiện bằng lời nói, mà còn bằng thái độ không tiếc bất cứ thứ gì với Chúa, nhất là tiền bạc và thời gian.
2. Một bình dầu thơm được đánh giá 2 cách khác nhau: Maria dùng nó như phương tiên phục vụ Chúa, Giuđa coi đó là một giá trị vật chất đáng thèm muốn.
3. Giuđa nói: “sao không bán dầu thơm đó lấy 300 đồng mà cho người nghèo”. Nhiều khi người nghèo bị lấy làm chiêu bài để che đậy cho lòng tham, để tô vẽ bộ mặt đạo đức của kẻ giả hình.
4. “Người nghèo thì anh em luôn có bên cạnh, còn Thầy thì anh em chẳng có mãi đâu”. Phục vụ Chúa và phục vụ tha nhân đều là hai việc tốt. Tuy nhiên Chúa dạy ta hai điều:
a/ Phải biết cân nhắc khi nào thì ưu tiên cho việc nào;
b/ Đừng viện cớ phục vụ tha nhân mà bỏ bổn phận phục vụ Chúa.
5. Các thượng tế quyết định giết luôn cả Ladarô, đó là thái độ “giận cá chém thớt”, một thái độ mà nhiều khi nếu không để ý , chúng ta cũng dễ mắc phải.
6. George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: “Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được thì còn tốt hơn”.
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ. (Góp nhặt).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Năm xưa, gia đình Matta đã được diễm phúc đón rước Chúa viếng thăm. Ngày nay qua Bí tích Thánh Thể Chúa lại viếng thăm chúng con mỗi ngày. Chúa viếng thăm để gặp gỡ, để trao đổi, chia sẻ cảnh đời tha phương của chúng con.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chính tình yêu đã dẫn lối đưa đường để Chúa đến với chúng con. Theo lẽ thường, không có tình yêu, người ta sẽ không đến với nhau, không ở lại với nhau. Không có trao đổi nên cũng không có chia sẻ và đỡ nâng nhau. Chúa cũng vì yêu nên đã lưu lại nơi trái đất này. Điều này cũng nói lên một tình yêu ban tặng nhưng không của Chúa dành cho chúng con. Đây là một vinh hạnh thật lớn lao và vô cùng qúy báu. Vì ai đâu ngờ, trái đất nhỏ bé so với vũ trụ bao la lại được vinh hạnh đón tiếp Chúa. Con người thụ tạo bé mọn lại được Thiên Chúa Đấng Tạo Thành viếng thăm.
Vâng lạy Chúa, với thân phận nhỏ bé, chúng con đâu dám được Chúa đoái nhìn. Chúa là Đấng thánh thiện. Chúng con chỉ là cát bụi đầy lầm lỗi. Chúa là Đấng toàn năng. Chúng con bất toàn và đầy khiếm khuyết. Chúa toàn mỹ. Chúng con lại vương vấn tội nhơ. Chúa thì cao sang. Chúng con chỉ là bọt bèo tôi tớ. Thế mà, Chúa đã phá đổ hàng rào ngăn cách đó để đến với chúng con.
Xin Chúa tha thứ những thiếu sót trong cuộc sống của chúng con. Biết bao lần chúng con qúa thờ ơ trước sự hiện diện của Chúa. Chúng con quá mải lo tìm kiếm tiền tài cùng thú vui và danh vọng mà quên đi giá trị đời người là gặp Chúa và sống kết hiệp với Chúa, là nguyên lý và nền tảng của hạnh phúc cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, là Đấng mà ai gặp gỡ cũng được Chúa biến đổi, thăng tiến. Xin giúp chúng con không chỉ cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa, mà còn biết sống dưới cái nhìn của Chúa. Là chu toàn lề luật Chúa trong yêu mến. Là biết sống theo ý Chúa trong phó thác, cậy trông. Xin dạy chúng con biết theo gương Chúa để ra khỏi chính mình mà đến với tha nhân trong tinh thần phục vụ, bác ái và yêu thương. Xin dùng chúng con như khí cụ của Chúa, để Chúa lại có thể tiếp tục viếng thăm những kẻ nghèo hèn, túng thiếu và tội lỗi, hầu giúp họ thăng tiến cuộc sống và tìm được giá trị đích thực của cuộc sống. Amen.

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

Vâng theo ý Chúa Cha

Đến giờ, Chúa Giêsu vào bàn ăn với mười hai tông đồ và bảo các ông: "Thầy đã tha thiết ước ao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi chịu khổ nạn. Thầy bảo các con, Thầy sẽ chẳng bao giờ ăn lễ này nữa, cho đến khi lễ này được thực hiện trong nước Thiên Chúa". Rồi Người cầm chén, tạ ơn và phán: "Các con hãy lãnh nhận chén này mà chia cho nhau: Thầy bảo cho các con biết: Thầy sẽ không uống thứ nho này nữa cho đến khi nước Thiên Chúa đến!" Đoạn Người cầm bánh và tạ ơn, bẻ ra và trao cho các ông mà phán: "Này là Mình Ta hiến ban vì các con, các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta". Cùng một thể thức ấy, sau bữa ăn tối, Người cầm lấy chén mà phán: "Chén này là Tân ước trong Máu Ta sẽ đổ ra vì các con. Vả lại này tay kẻ nộp Ta đang ở gần Ta, ngay trên bàn này. Đành rằng Con Người sẽ ra đi như đã được ấn định, nhưng vô phúc cho kẻ nộp Người!" Bấy giờ các ông bắt đầu hỏi nhau xem ai trong nhóm họ là kẻ làm điều đó.
Giữa các ông cũng xảy ra một cuộc tranh giành xem ai trong họ được coi là cao trọng hơn hết. Nhưng Người bảo: "Vua chúa các dân ngoại thì thống trị dân, và những kẻ có quyền hành trên dân thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con, thì không như thế, vì ai cao trọng hơn các con thì hãy trở thành như người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu, hãy trở thành như người hầu bàn. Vì người ngồi ăn và kẻ hầu hạ, ai trọng hơn, nào chẳng phải là người ngồi ăn ư? Thế mà Thầy, Thầy ở giữa các con như người hầu hạ. Còn các con, các con đã kiên trì với Thầy trong các cơn gian nan của Thầy,và Thầy xếp đặt nước trời cho các con như Cha Thầy đã xếp đặt cho Thầy, để các con sẽ được ăn uống đồng bàn trong nước Thầy, và được ngồi trên toà xét xử mười hai chi tộc Israel!"
Rồi Chúa nói: "Simon, Simon, này ma quỷ đã đòi sàng các con như sàng gạo, nhưng Ta đã cầu nguyện để con khỏi mất đức tin. Và phần con, khi đã trở lại, con hãy làm cho anh em con vững tin". Ông thưa Người: "Lạy Thầy, con sẵn sàng theo Thầy, dù vào tù hay đi chịu chết". Nhưng Người đáp: "Phêrô, Thầy bảo cho con biết: hôm nay khi gà chưa gáy, con đã chối rằng không biết Thầy". Và Người bảo các ông: "Khi Thầy sai các con đi không mang theo túi tiền, không bị, không giày dép, nào các con có thiếu thốn sự gì không?" Các ông thưa:  "Không thiếu gì cả". Vậy Người nói: "Nhưng bây giờ ai có túi tiền, hãy cầm lấy, ai có bị, cũng hãy làm như vậy, và ai không có gươm, thì hãy bán áo choàng mình mà mua lấy gươm. Vì Thầy bảo các con hay: còn điều này chép về Thầy cũng cần phải được ứng nghiệm: 'Người đã bị liệt vào số những kẻ gian ác'. Vì mọi điều đã chép về Thầy phải được hoàn tất". Các ông thưa Người:  "Thưa Thầy, này có hai thanh gươm đây". Và Người bảo: "Đủ rồi".
Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong Vườn Giệtsêmani
Đoạn Người ra đi lên núi cây ôliu như thường lệ. Các môn đệ cũng đi theo Người. Đến nơi, Người bảo các ông: "Các con hãy cầu nguyện để khỏi sa chước cám dỗ". Rồi Người đi xa các ông một quãng bằng ném một hòn đá và quỳ gối cầu nguyện rằng: "Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin Cha cất chén này xa con. Nhưng xin đừng theo ý con muốn, một theo ý Cha". Bấy giờ có thiên thần từ trời hiện ra an ủi Người. Và lâm cơn hấp hối, Người cầu nguyện thiết tha hơn, và mồ hôi Người chảy ra như những giọt máu rơi xuống đất. Cầu nguyện xong, Người đứng dậy, trở lại chỗ các môn đệ, và thấy các ông còn đang ngủ vì buồn sầu. Người liền bảo: "Các con ngủ ư? Hãy dậy và cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ".
Việc bắt giữ và tố tụng của người Do Thái
Người còn đang nói, thì này đây một lũ đông, và một người trong nhóm Mười Hai là Giuđa dẫn đầu. Hắn lại gần Chúa Giêsu để hôn Người. Chúa Giêsu bảo hắn: "Giuđa, ngươi lấy cái hôn để nộp Con Người ư?" Thấy các sự sắp xảy ra, những kẻ đứng chung quanh Người liền hỏi:  "Thưa Thầy, chúng con có nên dùng gươm mà chém không?" Và một người trong các ông chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt tai phải. Nhưng Chúa Giêsu lên tiếng bảo: "Thôi, đủ rồi".  Và Người sờ vào tai người đầy tớ ấy mà chữa cho y lành lại.Rồi Chúa Giêsu bảo các kẻ đến bắt Người gồm các thượng tế, trưởng vệ binh đền thờ và kỳ lão rằng: "Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ giữa các ngươi mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng đây là giờ của các ngươi và của quyền lực tối tăm".
Chúng liền bắt Người và điệu tới nhà thầy thượng tế. Còn Phêrô đi theo xa xa. Họ đốt lửa ngay giữa sân và ngồi vòng quanh, Phêrô cũng ngồi lẫn với họ. Một đứa đầy tớ gái thấy ông ngồi gần lửa, thì nhìn kỹ ông và bảo: "Cả ông này cũng theo hắn". Nhưng ông chối và nói: "Này chị, tôi đâu quen biết người ấy". Một lát sau, có người khác nhìn ông và nói:  "Chính ông cũng là người trong bọn đó".  Nhưng Phêrô đáp: "Này anh, đâu có phải tôi". Chừng một giờ sau, một người khác lại quả quyết rằng: "Đúng ông này cũng theo người ấy: vì ông ta cũng là người xứ Galilêa". Phêrô đáp: "Này anh, tôi không biết anh muốn nói gì?" Khi ông còn đang nói, thì lập tức gà liền gáy. Chúa Giêsu quay lại nhìn Phêrô. Bấy giờ Phêrô mới sực nhớ lời Chúa đã bảo ông trước: Khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần. Phêrô liền ra ngoài và khóc lóc thảm thiết.
Những kẻ canh giữ người, nhạo cười và đánh đập Người. Chúng che mặt Người, vả mặt mà hỏi Người rằng: "Hãy đoán xem ai đánh ngươi đó". Và chúng còn thốt ra nhiều lời khác nhục mạ Người.
Vừa sáng ngày, các kỳ lão trong dân, các thượng tế và các luật sĩ hội lại và cho điệu Người ra trước công nghị mà nói: "Nếu ông là Đấng Kitô, hãy nói cho chúng tôi hay". Người trả lời: "Tôi có nói, các ông cũng chẳng tin tôi, và nếu tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời và cũng chẳng tha tôi. Nhưng từ giờ đây, Con Người sẽ ngự bên hữu Thiên Chúa toàn năng". Mọi người đều hỏi lại: "Vậy ông là Con Thiên Chúa ư?" Người đáp: "Các ông nói đúng, Ta là Con Thiên Chúa".  Bấy giờ họ nói: "Chúng ta còn cần chứng cớ chi nữa? Vì chính chúng ta cũng nghe y nói".
Việc xử án trước tổng trấn Philatô và vua Hêrôđê
Đoạn tất cả bọn họ đứng dậy và giải Người đến Philatô. Họ bắt đầu tố cáo Người rằng:  "Chúng tôi đã thấy người này xúi giục dân nổi loạn, ngăn cản nộp thuế cho Cêsarê, và còn tự xưng là Kitô Vua". Philatô hỏi Người:  “Ông là Vua dân Do Thái ư? Người trả lời: “Chính ngài nói đó.” Philatô bảo các thượng tế và đám đông rằng: "Ta không thấy người này có tội gì". Nhưng họ cố nài rằng: "Người này đã làm náo động dân chúng, giảng dạy khắp xứ Giuđêa, bắt đầu từ Galilêa đến đây".
Philatô vừa nghe nói đến Galilêa, liền hỏi cho biết có phải đương sự là người xứ Galilêa không. Và khi đã biết Người thuộc thẩm quyền Hêrôđê, quan liền sai giải Người cho Hêrôđê cũng có mặt tại Giêrusalem trong những ngày ấy. Hêrôđê thấy Chúa Giêsu thì mừng rỡ lắm, vì từ lâu, ông ao ước thấy Người, bởi đã nghe nói về Người rất nhiều, và hy vọng xem Người làm một vài phép lạ. Nhà vua hỏi Người rất nhiều lời, nhưng Người không đáp gì hết. Trong khi ấy, các thượng tế và luật sĩ ở đó tố cáo Người dữ dội. Còn Hêrôđê cùng các quan lính thì khinh dể và nhạo báng Người, đoạn khoác cho Người một cái áo choàng trắng và gởi trả Người cho Philatô. Chính ngày đó, Hêrôđê và Philatô trở thành bạn hữu, vì trước kia họ là thù địch với nhau.
Bấy giờ Philatô triệu tập các thượng tế, các thủ lãnh và dân chúng lại, rồi bảo họ: "Các ngươi đã nộp cho ta người này như một kẻ xúi giục dân làm loạn, nhưng đây ta đã tra xét trước mặt các ngươi, và ta không thấy người này phạm tội nào trong những tội các ngươi tố cáo. Cả vua Hêrôđê cũng thấy như vậy, vì ta đã cử các ngươi đến nhà vua và nhà vua cũng không thấy có chi đáng tội chết cả. Vậy ta sẽ cho sửa phạt, rồi tha đi".
 Mỗi dịp lễ, quan tổng trấn phải phóng thích cho họ một người tù. Vậy toàn dân đồng thanh kêu lên: "Hãy giết người này, và tha Baraba cho chúng tôi". Tên này vì dấy loạn trong thành và giết người, nên đã bị tống ngục. Nhưng Philatô muốn tha Chúa Giêsu, nên lại nói với dân chúng. Nhưng chúng càng la to hơn và nói:  "Hãy đóng đinh nó, hãy đóng đinh nó vào thập giá!" Lần thứ ba, quan lại nói với dân chúng:  "Người này đã làm gì xấu? Ta không thấy nơi ông ấy có lý do để lên án tử hình. Vậy ta sẽ trừng phạt, rồi tha đi". Chúng lại la lớn tiếng, nhất định đòi đóng đinh Người vào thập giá, và tiếng la hét của chúng càng dữ dội hơn. Philatô liền tuyên án theo lời chúng yêu cầu. Vậy quan phóng thích tên đã bị cầm tù vì dấy loạn và giết người, là kẻ mà chúng đã xin tha, còn Chúa Giêsu thì quan trao phó để mặc ý chúng.
Bản án, việc đóng đinh và cái chết
Khi điệu Người đi, chúng bắt một người xứ Xyrênê, tên Simon, ở ngoài đồng về, chúng bắt ông vác thập giá theo sau Chúa Giêsu.  Đám đông dân chúng theo Người, có cả mấy người phụ nữ khóc thương Người. Nhưng Chúa Giêsu ngoảnh mặt lại bảo họ rằng: "Hỡi con gái Giêrusalem, đừng khóc thương Ta, hãy khóc thương chính các ngươi và con cái các ngươi. Vì này, sắp đến ngày người ta sẽ than rằng: "Phúc cho người son sẻ, phúc cho những lòng không sinh nở và những vú không nuôi con". Bấy giờ người ta sẽ lên tiếng với núi non rằng: "Hãy đổ xuống đè chúng tôi", và nói với các gò nổng rằng: "Hãy che lấp chúng tôi đi". Vì nếu cây tươi còn bị xử như vậy, thì gỗ khô sẽ ra sao?"
Cùng với Người, chúng còn điệu hai tên gian ác nữa đi xử tử. Khi đã đến nơi gọi là Núi Sọ, chúng đóng đinh Người vào thập giá cùng với hai tên trộm cướp, một đứa bên hữu và một đứa bên tả Người. Bấy giờ Chúa Giêsu than thở rằng: "Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm".  Rồi chúng rút thăm mà chia nhau áo Người. Dân chúng đứng đó nhìn xem, và các thủ lãnh thì cười nhạo Người mà rằng: "Nó đã cứu được kẻ khác thì hãy tự cứu mình đi, nếu nó thật là Đấng Kitô, người Thiên Chúa tuyển chọn". Quân lính đều chế diễu Người và đưa dấm cho Người uống và nói: "Nếu ông là vua dân Do-thái, ông hãy tự cứu mình đi". Phía trên đầu Người có tấm bảng đề chữ Hy-lạp, La-tinh và Do-thái như sau: "Người này là vua dân Do-thái".
Một trong hai kẻ trộm bị đóng đinh trên thập giá cũng sỉ nhục Người rằng:  "Nếu ông là Đấng Kitô, ông hãy tự cứu ông và cứu chúng tôi nữa". Đối lại, tên kia mắng nó rằng:  "Mi cũng chịu đồng một án mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao. Phần chúng ta, như thế này là đích đáng, vì chúng ta chịu xứng với việc chúng ta đã làm, còn Ông này, Ông có làm gì xấu đâu?" Và anh ta thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Ngài, khi nào về nước Ngài, xin nhớ đến tôi". Chúa Giêsu đáp: "Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa. Lúc đó Chúa Giêsu kêu lớn tiếng rằng: "Lạy Cha, Con phó linh hồn Con trong tay Cha". Nói đoạn, Người trút hơi thở.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Thấy sự việc xảy ra, viên sĩ quan ca tụng Thiên Chúa rằng:  "Ông này quả thật là người công chính". Và tất cả dân chúng có mặt thấy cảnh tượng đó, và chứng kiến những sự việc xảy ra, liền đấm ngực trở về. Đứng xa xa, có những kẻ quen biết Người, và mấy phụ nữ đi theo Người từ xứ Galilêa, họ cũng chứng kiến.
Các sự kiện sau cái chết
Tuy nhiên, có một công nghị viên tên là Giuse, ông quê ở thành Arimathia trong xứ Giuđêa, người tốt lành và công chính. Ông này đã không đồng ý với mưu toan và hành động của các công nghị viên khác, chính ông cũng trông đợi nước Chúa. Ông đến gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Đoạn ông hạ xác Người xuống, liệm trong khăn và táng trong mồ đã đục sẵn, nơi chưa táng xác ai. Hôm đó là ngày chuẩn bị và sắp bước sang ngày Sabbát. Trong khi đó, những người phụ nữ đã đi với Người từ xứ Galilêa, cũng theo đến xem mồ và xác Người được táng như thế nào. Rồi các bà về sửa soạn thuốc thơm và dầu thơm. Nhưng trong ngày Sabbát, các bà nghỉ theo đúng luật.
Suy niệm: 
Những bài đọc hôm nay đều trực tiếp hay gián tiếp nói đến việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết trên Thập giá. Nhưng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá không chỉ là đau đớn tủi nhục, mà là nguồn phát sinh ơn phúc:
- Phúc Âm (Lúc rước lá: Lc 19,28-40): Việc Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem như một vị Vua Messia là dấu chỉ rằng bình an và ơn cứu rỗi mà Thiên Chúa hứa sắp được thực hiện.
- Bài đọc I (Is 50,4-7): Người Tôi Tớ Thiên Chúa chịu đau khổ, nhưng hoàn toàn tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình.
- Bài đọc II (Pl 2,6-11): Chính vì Chúa Giêsu chịu hạ mình mang thân phận loài người và hy sinh cho đến chết, nên Thiên Chúa sẽ siêu tôn Ngài lên làm Chúa cả trời đất.
- Bài thương khó theo Thánh Luca (Lc 22,14—23,56): Chúa Giêsu trên Thập Giá là một Thiên Chúa nhân từ mở rộng vòng tay đón tiếp các tội nhân.
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Hôm nay bắt đầu Tuần Thánh, tuần lễ tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết và sống lại để cứu chuộc chúng ta. Thập giá là con đường dẫn tới vinh quang. Chúng ta hãy cùng đi theo Ngài trên con đường thập giá, chết cho con người cũ để sống lại thành con người mới.
II. LỜI CHÚA
1. Phúc Âm (Lúc rước lá: Lc 19,28-40)
Trong đoạn này, Luca gói ghém 3 ý tưởng chính:
1. Chúa Giêsu đích thân thu xếp cuộc vào thành Giêrusalem, Ngài căn dặn các môn đệ từng chi tiết nhỏ như đi vào làng, tìm gặp một con lừa đã cột sẵn ở một chỗ, cách trả lời với người chủ lừa v.v... Điều này chứng tỏ Ngài coi việc vào thành là quan trọng.
2. Quan trọng thế nào? Vì qua cuộc vào thành lần này, Ngài sẽ tỏ cho mọi người biết Ngài là vua. Ý nghĩa này thể hiện qua các chi tiết đám rước long trọng (lưng lừa và con đường được lót áo, dân chúng tung hô, lời hoan hô "Chúc tụng Đức Vua" v.v...
3. Thế nhưng một số người thuộc nhóm Pharisêu vẫn không công nhận vương quyền Ngài và còn đề nghị Ngài quở trách các môn đệ đã tung hô Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đáp "Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên", nghĩa là dù một ố người không công nhận Ngài là vua thì thực chất Ngài cũng vẫn là vua.
2. Bài đọc I (Is 50,4-7)
Đây là bài ca thứ 3 về Người Tôi Tớ của Thiên Chúa.
- Người Tôi Tớ này không bao giờ cưỡng lại Thiên Chúa. Trái lại luôn lắng nghe lời Ngài và làm theo ý Ngài.
- Người Tôi Tớ này cũng không chống lại sự áp bức của người khác.
- Người Tôi Tớ đặt trọn niềm trông cậy vào Thiên Chúa.
- Mặc dù bản thân đang chịu đau khổ, Người Tôi Tớ lại tìm cách nâng đỡ những người khác đang chịu đau khổ.
3. Đáp ca (Tv 21)
Đây là lời cầu nguyện của kẻ đang chịu đau khổ. Tuy nhiên không phải chỉ có những lời than vãn, mà phần sau, tác giả bày tỏ niềm tin tưởng rằng Thiên Chúa sẽ giải thoát mình.
4. Bài đọc II (Pl 2,6-11)
Đây là một thánh thi diễn tả những bước thăng trầm của Chúa Giêsu: Ngài đã hạ mình xuống đến mức tột cùng, nên Thiên Chúa đã nâng Ngài lên địa vị cao sang nhất.
5. Bài thương khó theo Thánh Luca (Lc 22,14—23,56)
Mỗi quyển Phúc Âm nhìn ra một nét riêng biệt nơi Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết. Raymond E. Brown đã tóm tắt rất súc tích như sau:
. Chúa Giêsu chịu nạn trong Phúc Âm Matthêu và Marcô là một Thiên Chúa "gục đầu" vì đau khổ và bị bỏ rơi.
. Chúa Giêsu chịu nạn trong Phúc Âm Gioan là một "Vị Vua đang ngự trên ngai".
. Chúa Giêsu chịu nạn trong Phúc Âm Luca là một Thiên Chúa nhân từ đang "mở rộng vòng tay" đón tiếp các tội nhân.
Như thế, nhân từ là nét nổi bật nhất về Chúa Giêsu trong bài tường thuật của Luca: Ngài đã chữa lành tai người đầy tớ của Vị Thượng Tế, Ngài đưa mắt nhìn Phêrô ngay sau khi ông này chối Ngài nhờ đó làm cho ông sám hối, Ngài dừng lại an ủi những phụ nữ khóc thương Ngài, Ngài hứa ban thiên đàng cho người trộm lành v.v.
III. GỢI Ý GIẢNG
1. Vinh quang của Chúa Giêsu
Cuộc rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem đã biểu dương vinh quang của Ngài. Nhưng vinh quang hôm nay chỉ thoáng qua và chóng lụi tàn vì vài ngày sau thì Ngài bị giết chết nhục nhã trên thập giá. Vinh quang thực sự của Chúa Giêsu chỉ biểu lộ trọn vẹn khi Ngài sống lại và tiến vào Giêrusalem trên trời.
Hôm nay chúng ta cầm lá đi kiệu và biểu dương vinh quang của Chúa Giêsu. Tuy nhiên chúng ta hãy nhớ rằng chúng ta chỉ thực sự biểu dương vinh quang Chúa Giêsu khi để cho Ngài thực sự làm vua ngự trị trong lòng mình, bằng cách tuân giữ những giới răn của Ngài và sống theo tinh thần của Ngài.
Tinh thần của Chúa Giêsu chính là tinh thần của Người Tôi Tớ được diễn tả trong các bài đọc hôm nay: sẵn sàng tự hạ, chấp nhận hy sinh để bước theo Ngài và cùng chết với Ngài để được cùng sống lại với Ngài.
2. Làm chứng cho Đức Kitô giữa nơi công cộng
Hôm Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem, các môn đệ đã công khai bày tỏ lòng tin tưởng và trung thành với Ngài. Điều đáng khen là các ông đã làm điều ấy trước mặt những người biệt phái đang quyết liệt chống đối Chúa Giêsu. Khi những người biệt phái nói với Chúa Giêsu hãy bảo môn đệ im đi, thì Ngài trả lời: "Họ mà làm thinh thì sỏi đá cũng sẽ kêu lên". Nhiều khi cũng cần có những sự ủng hộ công khai. Bởi thế thông thường Chúa Giêsu rất âm thầm nhưng hôm nay Ngài tán thành việc làm của các môn đệ.
Tuy nhiên trong thái độ của các môn đệ cũng có điều đáng nghi ngờ. Không phải nghi ngờ về lòng trung thành của các ông, mà nghi ngờ vì đó là một phản ứng theo đám đông. Phản ứng theo đám đông thì thường là ồn ào, nhưng không sâu sắc.
Chúng ta dễ làm chứng cho Chúa Giêsu trong Nhà thờ, vì nơi đây chúng ta đang ở giữa những người cùng quan điểm với mình. Nhưng không dễ chút nào khi phải làm chứng cho Ngài giữa một môi trường rất khác với mình và có khi còn thù nghịch với mình nữa. Dù vậy nhiều khi chúng ta cần phải can đảm làm chứng trong hoàn cảnh khó khăn như thế.
Thực ra, sỏi đá không thể kêu lên. Chỉ con người mới kêu lên được. Có nhiều trường hợp chúng ta được im lặng mà phải nói lên: nói lên để bênh vực một người đang bị đối xử bất công, nói lên để khích lệ một người đang âm thầm đóng góp cho việc chung, nói lên sự thật để đầy lùi những lời dối trá…
Chúng ta đang làm chứng cho Chúa trong Nhà thờ. Nhưng đừng quên làm chứng cho Ngài ở giữa chợ đời. Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: "Ai tuyên xưng Ta trước mặt người khác thì Ta sẽ tuyên xưng người ấy trước mặt Cha Ta trên trời". (FM)
3. Con đường vinh quang
Trong bài đọc II, Thánh Phaolô đã ngầm so sánh Chúa Giêsu với Ađam.
Ađam đã đi tìm vinh quang bằng cách muốn được "ngang hàng với Thiên Chúa". Nhiều người chúng ta cũng tìm vinh quang bằng cách khẳng định chính mình. Đây là con đường chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại.
Còn Chúa Giêsu thì chỉ biết làm theo ý Thiên Chúa nên sẵn sàng tự hạ mình xuống đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên Thập giá. Nhưng đây là con đường đưa đến vinh quang thật. Chính nhờ thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và tặng ban danh hiệu trổi vượt mọi danh hiệu… khiến mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng Chúa Giêsu Kitô là Chúa".
Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên.
4. Yêu cho đến cùng
Tại nhà thờ chính toà Nuzburg trong miền Baviere, Tây Đức, có một tượng thánh giá nổi tiếng được chạm trỗ vào khoảng thế kỷ thứ 14. Hai cánh tay đã rút khỏi lỗ đinh và vòng ra phía trước như ôm một con người.
Tương truyền rằng có một tội nhân hết lòng sám hối ăn năn, xin Chúa thứ tha tội lỗi. Nhưng vì tội ông quá lớn, quá nhiều nên ông vẫn còn nghi ngờ lòng thương xót của Người. Chúa liền đưa tay ra ôm chầm lấy ông trong vòng tay âu yếm để bày tỏ lòng Chúa khoan dung hải hà.
*
Trong suốt cuộc đời công khai rao giảng, rất nhiều lần, Chúa Giêsu đã bày tỏ tấm lòng yêu thương con người: Người đã thực hiện các phép lạ, chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỉ, dạy dỗ dân chúng, âu yếm trẻ thơ, và tha thứ cho tội nhân. Hôm nay, Người quyết định bước vào đoạn cuối của tình yêu, đỉnh cao của dâng hiến. Người quyết định yêu cho đến cùng, bằng cuộc khổ nạn và cái chết đau thương của Người.
Nhưng trước hết, Người phải chịu một cơn cám dỗ cuối cùng. Cơn cám dỗ mà Luca đã báo trước: "Quỉ rút lui để chờ dịp khác" (4,13). Dịp ấy, hôm nay đã đến. Satan nhập vào Giuđa, để người môn đệ bất trung, tham của này đùng cái hôn nộp thầy. Satan sàng Phêrô và các môn đệ như sàng gạo để Phêrô thì chối thầy, còn các ông khác thì bỏ trốn. Vườn Ghếtsêmani quả thật là nơi giao tranh giữa Chúa Giêsu và quyền lực tối tăm, giữa sự thiện và cái ác. Người dùng phương thế hữu hiệu là cầu nguyện để thắng cám dỗ. Nhưng dường như trong cuộc chiến nội tâm của Người rất căng thẳng, nên Người đã xin Chúa Cha tha cho Người khỏi uống chén này. Người lên cơn xao xuyến bồi hồi đến nỗi mồ hôi như những giọt máu rơi xuống đất.
Thế nhưng, Người vẫn nhân từ thực hiện nghĩa cử yêu thương cuối cùng, trước khi hoàn toàn dâng hiến trên thập giá: Người hiền hoà ra đón Giuđa, và dịu dàng nhắc nhở ông về tình nghĩa thầy trò. Người chữa lành tên đầy tớ bị Phêrô chém đứt tai. Người quay nhìn Phêrô với ánh mắt tha thứ khi ông chối Thầy. Người an ủi những phụ nữ thương khóc người. Người xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ đóng đinh Người. Người ban thiên đàng cho tên trộm biết sám hối.
Cuối cùng, Người đã hoàn toàn dâng hiến trên thập giá để cứu chuộc tất cả muôn người. Sinh thời Người đã nói: "Không có tình yêu nào cao quí bằng người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15,13). Vậy, Người đã yêu thương con người cho đến giọt máu cuối cùng. Thánh Gioan viết: "Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng" (Ga 13,1b).
5. Chiến thắng của Tình yêu
Mỗi năm đến ngày Chúa nhật Lễ Lá là chúng ta lại được nghe Bài Thương khó của Chúa Giêsu. Chúng ta nhớ lại sự hèn nhát của những môn đệ Ngài: họ đã bỏ Ngài ngay giữa lúc Ngài cần họ ở bên cạnh nhất; chúng ta nhớ lại lòng dạ xấu xa của những nhà lãnh đạo do thái: họ đã tìm cách để giết Ngài; chúng ta cũng nhớ lại sự hung dữ của những người lính: họ đã hành hạ Ngài rất tàn nhẫn. Chúng ta phải nhớ những điều ấy, bởi vì chúng có liên hệ với chúng ta.
Tuy nhiên, đó không phải là mục đích chính của những bài tường thuật việc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết. Điểm nhấn mạnh của những tường thuật này không phải là ở chỗ đó, mà là ở tấm lòng của Chúa Giêsu, nhân vật chính của các bài tường thuật ấy. Điều mà các tác giả Phúc Âm muốn chúng ta nhớ nhiều nhất, đó là lòng trung thành, lòng can đảm và lòng nhân từ của Chúa Giêsu. Trên nền trời u ám của đồi Canvê, lòng nhân từ của Chúa Giêsu càng chiếu tỏa sáng ngời.
Nhìn bề ngoài thì xem ra Chúa Giêsu đã thất bại. Nhưng thực ra, đó là một chiến thắng, chiến thắng của sự Thiện trên sự dữ, của Tình yêu trên hận thù, của ánh sáng trên bóng tối, của sự sống trên sự chết. Trong lòng Ngài lúc đó, chẳng có tình cảm nào khác ngoài Tình yêu. Nếu không có Tình yêu thì tất cả những khổ đau Ngài chịu đều vô ích. Không phải những đau khổ của Chúa Giêsu mang lại ơn cứu rỗi, mà chính Tình yêu của Ngài. Ai nói rằng mình thích chịu đau khổ thì đó là người khùng, bởi vì ai cũng muốn tránh đau khổ, tuy nhiên vì yêu mà người ta sẵn sàng chịu đau khổ cho người mình yêu. Chính Tình yêu làm cho đau khổ có ý nghĩa. Hơn nữa, tình yêu còn đem lại niềm vui ngay giữa những đau khổ.
Noi gương Chúa Giêsu, kitô hữu chúng ta hãy chấp nhận những đau khổ. Nhưng không chỉ có thế, chúng ta hãy thánh hóa những đau khổ ấy. Tình yêu làm cho đau khổ được thánh hóa. (FM)
6. Những đau khổ của Chúa Giêsu và của chúng ta
Một buổi tối, một người trên đường từ sở làm về nhà. Khi đi ngang một nhà thờ, người ấy như bị thúc đẩy bước vào. Hình ảnh đầu tiên đập vào đôi mắt anh là Chúa Giêsu trên thánh giá. Thoạt nhìn, anh cảm thấy ghê sợ và muốn thụt lùi. Nhưng sau đó, anh nhận ra có một mối giây liên kết giữa người đang chịu đóng đinh trên thánh giá với những người mẹ khóc con bị chết vì chiến tranh, với những trẻ em sắp chết đói bên Châu Phi, với những gia đình có người thân chết vì tai nạn, với những bệnh nhân thể xác và tâm thần… Hình như tất cả những khổ đau của loài người đều được gom lại trên thân thể của Người đang chịu đóng đinh trên thánh giá.
Sau đó anh nhìn chung quanh mình và thấy cũng có một số người đang quỳ cầu nguyện trong thinh lặng. Một bà cao tuổi bước đến bên Thánh Giá và kính cẩn hôn những vết thương của Chúa Giêsu. Sau đó Bà rời nhà thờ, vẻ mặt thanh thản, bình an, có vẻ như Bà đã tìm lại được sức mạnh, hy vọng và tình yêu cho cuộc sống. Từ trước đến nay, anh không biết cầu nguyện. Nhưng hôm đó, lần đầu tiên anh đã cầu nguyện. Và anh khám phá rằng thập giá của sự khủng khiếp đã biến thành Thánh giá của hy vọng, thân thể bì hành hạ của Chúa Giêsu biến thành thánh thể của sự sống mới, những vết thương mở toang của Ngài trở thành nguồn thứ tha, cứu chữa và hòa giải… Khi bước ra khỏi nhà thờ, anh cảm thấy lòng mình rất bình an thanh thản.
Cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu không phải là một màn kịch mà là một sự thật. Ngài đã chịu rất nhiều đau khổ, trong than xác và trong tinh thần. Nhưng tất cả những đau khổ ấy Ngài tự ý tự nguyện gánh chịu, vì yêu.
Khi chúng ta liên kết những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Chúa Giêsu trên Thánh Giá, chúng ta sẽ tìm được bình an. Chúng ta biết rằng chúng ta không cô đơn trong đau khổ, mà có Chúa cùng chịu đau khổ với chúng ta. Ngài chính là Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. (FM)
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu, chính vì vâng theo thánh ý Cha và cũng vì yêu chúng con mà Chúa đã sẵn lòng vác thánh giá, vui chịu mọi khổ đau nhục hình. Xin cho chúng con từ nay cũng biết yêu Chúa hơn yêu bản thân, và yêu Chúa chỉ vì Chúa chứ không mong phần thưởng nào khác.
Xin cho chúng con nhận ra thánh giá của Chúa trong mọi đau khổ của cuộc đời chúng con, và vững bước theo Chúa trên đường thánh giá, miễn là chúng con đang chu toàn thánh ý Chúa. Amen.

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

Quy tụ về một mối

Khi ấy, trong những người đến thăm Maria, có nhiều kẻ đã tin vào Chúa Giêsu.Nhưng trong nhóm có kẻ đi gặp người biệt phái và thuật lại các việc Chúa Giêsu đã làm.Do đó, các thượng tế và biệt phái họp công nghị, và nói: "Chúng ta phải xử trí sao đây? Vì người này làm nhiều phép lạ.Nếu chúng ta để mặc người ấy làm như thế, thì mọi người sẽ tin theo và quân Rôma sẽ kéo đến phá huỷ nơi này và dân tộc ta".Một người trong nhóm là Caipha làm thượng tế năm đó, nói với họ rằng: "Quý vị không hiểu gì cả!Quý vị không nghĩ rằng thà một người chết thay cho dân, còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt".Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân,và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mát về một mối.
Bởi vậy, từ ngày đó, họ quyết định giết Người. Vì thế Chúa Giêsu không còn công khai đi lại giữa người Do Thái nữa. Người đi về miền gần hoang địa, đến thành phố tên là Ephrem, và ở lại đó với các môn đệ. Khi đó đã gần đến Lễ Vượt Qua của người Do Thái. Có nhiều người từ các miền lên Giêrusalem trước lễ, để được thanh tẩy. Họ tìm Chúa Giêsu; họ đứng trong đền thờ và bàn tán với nhau: "Anh em nghĩ sao? Người có đến hay không?" Còn các thượng tế và biệt phái đã ra lệnh rằng nếu ai biết Người ở đâu, thì phải tố cáo để họ bắt Người.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài trích Phúc Âm: các thượng tế và biệt phái hạ quyết tâm giết Chúa Giêsu. Thượng tế Caipha nói: “Thà một người chết thay cho dân…” Thánh Gioan hiểu lời này, tuy Caipha nói ra một cách vô ý thức, nhưng thực sự diễn tả rất đúng ý nghĩa và giá trị cái chết của Chúa Giêsu: “Không phải tự ông nói điều đó, nhưng với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân. Và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối”.
2. Lời tiên tri trên chính là lời của Giêrêmia, được thuật lại trong Bài Đọc 1: “Này Ta sẽ đem con cái Israel ra khỏi các dân tộc mà chúng đang cư ngụ. Từ khắp nơi, Ta sẽ quy tụ chúng lại và đưa chúng về quê hương”. Giêrêmia chỉ mới hiểu những kẻ mà Thiên Chúa quy tụ là dân Israel mà thôi. Thực sự dân mới của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu dùng cái chết của mình để quy tụ không chỉ là những người Israel, mà còn là tất cả những ai tin vào Ngài.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. “…Với danh nghĩa là thượng tế năm ấy, ông đã nói tiên tri rằng Chúa Giêsu phải chết thay cho dân. Và không phải cho dân mà thôi, nhưng còn quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác về một mối.” trong số những người được Chúa chết thay, có tôi nữa.
2. Chúa Giêsu đã chịu chết thay cho người khác. Ngài nêu lên cho chúng ta một lý tưởng rất đẹp mà sự không ngoan của chúng ta không bao giờ nghĩ tới được. Nếu hôm nay tôi chưa chết thay cho người khác được, thì ít ra hãy tập những hành vi nho nhỏ chịu cực khổ vì người khác, cho người khác và thay cho người khác.
3. Một nông dân đi xe ngựa ra phố. Đến một cửa tiệm, ông dừng xe lại vào mua đồ. Ông vừa tới cửa thì con ngựa hí lên và bỏ chạy, ông vội vàng chạy ra túm lấy dây cương và siết chặt. Con ngựa càng hoảng sợ hơn và chạy tứ tung trên đường, kéo theo người nông dân tội nghiệp. Dân chúng đổ xô ra xem. Đến khi dừng được ngựa thì người nông dân đã bê bết máu và thoi thóp thở. Một người hỏi: “Sao mà ông dại dột hy sinh đời mình vì con ngựa và chiếc xe như thế?” Ông thều thào: “Cứ nhìn vào trong xe thì biết!” Họ nhìn vào và thấy đứa con nhỏ của ông còn đang ngủ. (Góp nhặt).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mùa chay luôn mời gọi chúng con cùng vác thập giá đi theo Chúa. Xin Mình Máu Thánh Chúa thêm sức mạnh để chúng con can đảm vượt qua những chông gai trên đường đời.
Lạy Chúa, cuộc đời có đau khổ và hạnh phúc. Có những nụ cười và có cả những giọt nước mắt. Có những thành công và thất bại. Chúng con cám ơn Chúa đã chia sẻ phận người với chúng con. Chúa đã sống trọn kiếp người ba chìm bảy nổi và đầy sóng gió nguy nan. Chúa đã trải qua những năm tháng hồn nhiên của tuổi thơ. Chúa âm thầm sống theo từng lừa tuổi để yêu thương và cảm thông với chúng con. Cuộc đời Chúa không thiếu những lời khen và cũng không ít những lời chê. Chúa đã từng làm ơn để rồi bị mắc oán. Chúa cũng cảm nghiệm nỗi đau của sự vong ân bội nghĩa của tha nhân. Nhưng Chúa đã vượt qua tất cả nhờ sự vâng phục thánh ý Chúa Cha. Xin cho chúng con cũng biết tìm kiếm ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời. Xin giúp chúng con luôn quảng đại gieo vãi tình yêu thương mà không mong đền đáp.
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết đi theo Chúa trên con đường thập gia hy sinh. Xin giúp chúng con biết mục nát đời mình nên nguồn sống cho anh em. Xin giúp chúng con biết chấp nhận thực tại cuộc sống: có vui, có buồn, có đau khổ và có hạnh phúc, nhưng điều quan yếu là dầu trong hoàn cảnh nào chúng con cũng luôn có Chúa bên mình. Amen.

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2013

Ta và Cha là một

Khi ấy, người Do Thái lượm đá để ném Chúa Giêsu.Người lên tiếng hỏi rằng: "Ta đã cho các ngươi thấy nhiều việc tốt lành bởi Cha Ta. Vậy vì việc nào mà các ngươi muốn ném đá Ta?" Người Do Thái trả lời: "Chúng tôi muốn ném đá ông không phải vì việc lành, nhưng vì một lời lộng ngôn, bởi vì ông chỉ là người mà lại tự cho mình là Thiên Chúa".
Chúa Giêsu đáp lại: "Nào trong sách luật của các ngươi không có chép câu này: 'Ta đã nói: các ngươi là thần'? Vậy nếu sách luật gọi những kẻ được nghe lời Chúa là thần, mà Kinh Thánh không thể huỷ diệt được, thì tại sao các ngươi nói với Đấng đã được Chúa Cha thánh hoá và sai đến trong trần gian rằng 'Ông nói lộng ngôn', vì Ta đã nói Ta là Con Thiên Chúa? Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta làm những việc đó, thì dầu các ngươi không muốn tin Ta, cũng hãy tin vào các việc đó, để các ngươi biết và tin rằng: Cha ở trong Ta, và Ta ở trong Cha".
Bởi đó họ tìm cách bắt Người, nhưng Người thoát khỏi tay họ. Người lại qua bên kia sông Giođan, nơi trước kia Gioan đã làm phép rửa. Và Người ở lại đó. Có nhiều kẻ đến cùng Người. Họ nói: "Gioan đã không làm một phép lạ nào. Nhưng mọi điều Gioan nói về người này đều đúng cả". Và có nhiều kẻ tin Người.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: nhất trí với nhiều ngôn sứ khác, ngôn sứ Giêrêmia tiên báo Đấng Messia sẽ bị chống đối và bách hại bởi chính dân mình. Nhưng Ngài sẽ được Thiên Chúa nâng đỡ và cứu thoát.
2. Trong bài Phúc Âm hôm qua, Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu Ngài là ai. Ngài nói hơi xa xôi “Khi Abraham chưa sinh ra thì đã có Ta rồi”. họ không hiểu mà còn lấy đá định ném Người. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ “Ta là Con Thiên Chúa”. Lần này, họ kết tội Ngài phạm thượng.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Trong các cuộc tranh luận với người Do Thái, Chúa Giêsu đã mặc khải sự thật về Ngài, về mối tương quan giữa Ngài với Chúa Cha: “Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha”. Nhưng người Do Thái không thể tin hay nói cách khác là không muốn tin vào Chúa. Họ vẫn khăng khăng coi Ngài chỉ là một con người. Do đó họ lượm đá ném Chúa vì cho Ngài là lộng ngôn… Những người Do Thái này đã quá chìm sâu trong tội lỗi của họ. Họ không cảm thấy cần ơn cứu rỗi. Kitô hữu chúng ta ngày nay cũng có thể bị ảnh hưởng bởi tinh thần thế tục: chỉ muốn nhìn Chúa Giêsu như một con người, một nhà cách mạng không hơn không kém. Chúng ta có thể bị cám dỗ lượm đá ném Chúa vì những gì liên hệ đến Ngài. (Mỗi ngày một tin vui).
2. Nhìn thấy sự khó tin của người Do Thái đối với Chúa Giêsu, rồi nhìn lại đức tin của mình sao mà dễ dàng quá: ngay từ khi mới sinh ra mình đã được biết Chúa và tin Chúa, ta không nhận ra Đức Tin là một hồng ân sao? Hãy cám ơn Chúa đã ban ơn Đức Tin cho chúng ta, và xin Ngài gìn giữ Đức Tin ấy khỏi bị lạc mất.
3. Một người da trắng và một người thổ dân cùng nghe giảng. Người thổ dân cảm động và xin nhập đạo ngay. Còn người da trắng cũng cảm động nhưng cả một năm sau mới gia nhập đạo. Trong một buổi phục vụ, người da trắng hỏi: “Tôi phải mất một thời gian mới có lòng tin, sao anh có lòng tin sớm thế?” Người thổ dân đáp: “Này bạn, để tôi nói cho bạn nghe. Có vị hoàng tử hứa cho chúng ta chiếc áo mới. Bạn nhìn vào áo mình tự nhủ: Áo mình còn đẹp, để mai hãy lấy. Còn tôi, tôi nhìn vào tấm áo cũ kỹ của mình, thấy nó chẳng ra gì, nên vội vàng đến nhận áo mới. Bạn ạ, bạn đã có chút khôn ngoan, nên bạn muốn dùng chúng. Còn tôi, tôi không có, nên tôi mau mắn đón nhận sự khôn ngoan của Chúa Giêsu.” (Góp nhặt).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đã thiết lập bí tích Thánh Thể như dấu chỉ sự hợp nhất chúng con nên một trong Chúa, như lời bài hát: “Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây”. Bởi lẽ, tuổi thơ ngây con cái thường vui đùa bên cha mẹ, luôn cảm thấy an vui khi cha mẹ ở bên. Nhờ sự hiện diện của cha mẹ, con cái sum vầy bên nhau và mái nhà rộn rã tiếng cười vui. Qua Bí tích Thánh Thể Chúa hiện diện giữa chúng con như người cha luôn ở bên con cái mình. Sự hiện diện của Chúa đã quy tụ cộng đoàn chúng con thành một gia đình giáo xứ. Niềm vui của sự sum vầy và hạnh phúc của tình huynh đệ sẽ chan hòa nếu chúng con biết sống trong sự hướng dẫn và quan phòng của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, nhờ Chúa mang lấy thân phận con người mà chúng con được làm con cái Thiên Chúa. Chúng con xin tạ ơn, chúc tụng và ngợi khen tình yêu mà Chúa đã dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa bằng đời sống bác ái yêu thương. Xin cho chúng con biết đối xử với nhau trong tình thân ái của anh em con một cha trên trời. Xin giúp chúng con đừng vì tính ích kỷ, kiêu căng để rồi làm mất vẻ đẹp hợp nhất nơi Giáo Hội, nhưng luôn biết sống khiêm tốn để cùng nhau tôn vinh chúc tụng Chúa trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013

Giữ Lời Chúa

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với người Do Thái rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Nếu ai giữ lời Ta, thì muôn đời sẽ không phải chết". Người Do Thái lại nói: "Bây giờ thì chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám. Abraham đã chết và các tiên tri cũng vậy, thế mà ông lại nói: 'Ai giữ lời Ta, thì không bao giờ phải chết'. Chẳng lẽ ông lại lớn hơn cha chúng tôi là Abraham sao? Ngài đã chết, các tiên tri cũng đã chết. Ông cho mình là ai?"
Chúa Giêsu trả lời: "Nếu Ta tự tôn vinh chính mình, thì vinh quang của Ta sẽ không giá trị gì. Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Người là chính Đấng các ngươi xưng là Thiên Chúa của các ngươi. Vậy mà các ngươi không biết Người. Còn Ta, Ta biết Người. Nếu Ta nói Ta không biết Người, thì Ta cũng nói dối như các ngươi. Nhưng Ta biết Người, và Ta giữ lời Người. Cha các ngươi là Abraham đã hân hoan, vì nghĩ sẽ được thấy ngày của Ta. Ông đã thấy và đã vui mừng".
Người Do Thái liền nói: "Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã trông thấy Abraham rồi sao?" Chúa Giêsu trả lời: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi: Khi Abraham chưa sinh ra, thì Ta đã có rồi".
Bấy giờ họ lượm đá ném Ngài, nhưng Chúa Giêsu ẩn mình đi ra khỏi đền thờ.
Suy niệm: 
A. Phân tích (hạt giống...)
Lời Chúa hôm nay nói về Abraham và Chúa Giêsu:
1. Bài đọc 1: Thiên Chúa gọi Abram, giao ước cho ông là tổ phụ nhiều dân tộc và đổi tên ông là Abraham. Bởi đó, Abraham rất được người Do Thái ngưỡng mộ. Họ coi ông là tổ phụ của họ.
2. Phúc Âm: Chúa Giêsu cố gắng làm cho người Do Thái hiểu về Ngài. Trong bài trích Phúc Âm này, Ngài nói hơi xa xôi: Khi người Do Thái hỏi “Chẳng lẽ ông lại lớn hơn Cha chúng tôi là Abraham sao?”, Ngài đáp “Khi Abraham chưa sinh thì đã có Ta rồi. Ý Ngài muốn họ hiểu Ngài là Thiên Chúa. Nhưng chẳng những họ không hiểu mà họ còn định lấy đá ném Ngài.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Trong cuộc đối thoại với người Do Thái, Chúa Giêsu càng lúc càng mặc khải thêm về thân thế của Ngài… Nhưng với cái nhìn và kiến thức cũng như kinh nghiệm cá nhân, người Do Thái không thể nhận biết thân thế của Chúa: Ông là ai? Ông chưa được 50 tuổi mà đã trông thấy Abraham sao? Bây giờ chúng tôi mới biết rõ ông bị quỷ ám… Sự thật của Chúa đòi hỏi con người phải từ bỏ nếp sống cũ của tội lỗi, những mưu tính vụ lợi, những ganh tị tham lam (Mỗi ngày một tin vui).
2. Nhiều người thời nay cũng không thể chấp nhận sự thật về Chúa Giêsu. Họ không tin Ngài là Đấng Cứu Thế, càng không tin Ngài là Con Thiên Chúa. Bởi vì họ đã có quá nhiều thành kiến về đạo, trong đó cũng có những thành kiến do một số người có đạo tạo nên. Mỗi người hãy tự kiểm xem có khi nào vô tình khiến người ta có thành kiến với Chúa và với Giáo hội không?
3. Một du khách mới tới Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung Hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quý vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quý vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi bị sai lạc”. Và một người Á Đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin” Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn. (Góp nhặt).
4. Ngày nọ, Đức Giám Mục Jonh Selwyn thấy một người con trai người bản địa cư xử thô bạo với kẻ khác, Ngài gọi cậu lại khiển trách. Chẳng những không chịu nghe, cậu ta còn vung tay đánh vào mặt vị Giám mục. Mọi người thấy vậy đứng chết trận. Nhưng vị Giám mục không cho họ làm gì. Rồi Ngài quay lưng ra và lặng lẽ bỏ đi.
Nhiều năm sau, một vị truyền giáo được mời đến với một bệnh nhân. Ông sắp chết và xin được rửa tội. Khi nhà truyền giáo hỏi anh muốn lấy tên thánh là gì. Anh đáp: “Xin đặt là John Selwyn, vì chính Ngài đã dậy cho tôi biết Đức Kitô là ai khi tôi đánh Ngài”. (Góp nhặt).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con thật lòng tạ ơn tình thương của Chúa dành cho mỗi người chúng con. Cho dù cuộc đời chúng con còn đầy những tội lỗi và lầm lỡ, nhưng Chúa vẫn trao ban cho chúng con biết bao ơn lành hồn và xác. Xin cho chúng con biết trân trọng những ân ban của Chúa, và khiêm hạ đón nhận trong tâm tình cảm mến tri ân. Xin cho chúng con cũng được trở nên tấm bánh đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình và cho mọi người.
Lạy Chúa, mỗi lần chúng con được rước Chúa là một lần chúng con được mời gọi hoàn thiện mình trở nên thánh thiện theo hình ảnh Chúa. Mỗi lần chúng con rước Chúa là chúng con được bổ dưỡng bởi sức sống phục sinh của Chúa. Xin cho chúng con được sống trong tình thương của Chúa với trọn tâm tình hân hoan như lời thánh vịnh mô tả:
“Hạnh phúc thay ai sống hoàn thiện,
biết noi theo luật pháp Chúa Trời.
Con thành tâm dâng lời cảm tạ,
vì được biết những quyết định công minh.
Thánh chỉ Ngài con xin tuân giữ,
xin Ngài đừng nỡ bỏ rơi con.
Xin Chúa luôn ở bên cuộc đời chúng con. Xin nâng đỡ những yếu hèn nơi bản thân chúng con. Xin giúp chúng con biết hoàn thiện cuộc đời mình theo thánh ý Chúa, ngõ hầu làm rạng danh Chúa trong cuộc đời hôm nay. Amen.

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013

Tự do thật sự

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với những người Do Thái đã tin nơi Ngài rằng: "Nếu các ngươi cứ ở trong lời Ta, các ngươi sẽ thật là môn đệ của Ta, và sẽ được biết sự thật, và sự thật giải thoát các ngươi". Họ thưa lại Người: "Chúng tôi là con cháu Abraham, và chưa bao giờ làm nô lệ ai cả. Tại sao ông lại nói 'Các ngươi sẽ được tự do'?". Chúa Giêsu trả lời rằng: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Hễ ai phạm tội, thì làm nô lệ cho tội. Mà tên nô lệ không ở mãi trong nhà; người con mới ở vĩnh viễn trong nhà. Vậy nếu Chúa Con giải thoát các ngươi, thì các ngươi sẽ được tự do thực sự. Ta biết các ngươi là con cháu Abraham, thế mà các ngươi lại tìm giết Ta: vì lời Ta không thấm nhập vào lòng các ngươi. Ta nói những điều Ta đã thấy nơi Cha Ta. Còn các ngươi, các ngươi làm điều các ngươi đã thấy nơi cha các ngươi". Họ đáp lại: "Cha chúng tôi chính là Abraham!" Chúa Giêsu nói: "Nếu thực các ngươi là con cháu Abraham, thì các ngươi làm công việc của Abraham! Nhưng các ngươi đang tìm giết Ta, là người đã nói cho các ngươi biết sự thật mà Ta nghe tự Thiên Chúa. Điều đó Abraham đã không làm! Các ngươi đang làm việc của cha các ngươi!" Họ lại nói: "Chúng tôi không phải là những đứa con hoang! Chúng tôi chỉ có một Cha là Thiên Chúa!" Chúa Giêsu nói: "Nếu Thiên Chúa là Cha các ngươi, thì các ngươi yêu mến Ta, vì Ta tự Thiên Chúa mà đến; vì Ta không tự mình mà đến, nhưng chính Ngài đã sai Ta đến".
Suy niệm: 
A. Phân tích (hạt giống...)
Lời Chúa hôm nay đặt vấn đề “giải thoát”:
1. Bài đọc: Ba thiếu niên Sidrach, Misach và Abdênagô bị ném vào lò lửa. Vua Nabucôđônôsor bảo họ thờ lạy các thần Babilon thì họ sẽ được giải thoát. Họ không nghe vua, nhưng lại kêu xin Thiên Chúa và Ngài đã giải thoát họ.
2. Phúc Âm: Chúa Giêsu nói cho người Do Thái biết điều gì trói buộc họ khiến họ làm nô lệ, và điều gì sẽ giải thoát khiến họ được tự do.
Điều trói buộc họ thành nô lệ là tội, nhất là tội tự mãn mình là con cháu Abraham nhưng không làm theo gương Abraham là mở rộng cõi lòng để tin vào Thiên Chúa và Đấng mà Thiên Chúa đã sai đến.
Điều giải thoát cho họ được tự do là nghe lời Chúa Giêsu để biết Sự Thật, “Sự thật sẽ giải thoát con người”.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Bạn đang kẹt trong một tình thế rắc rối và muốn thoát ra. Có nhiều cách: dùng sức để đấu tranh, dùng mưu để đánh lừa, dùng tiền để mua chuộc… Có lẽ bạn sẽ thoát, nhưng chỉ tạm thời. Lòng bạn sẽ phập phồng lo lắng không biết lúc nào sẽ bị lôi trở lại tình thế rắc rối đó. Chỉ có một cách giải thoát bạn một cách thực sự, đó là sự thật: hãy bình tĩnh nhận định tình thế để thấy rõ sự thật của mình và của người và hai bên cùng nhau giải quyết thẳng thắn.
2. Muốn giải thoát con người của mình khỏi những trói buộc của lỗi lầm và khuyết điểm, điều cần thiết trước tiên là phải biết sự thật về những lỗi lầm và khuyết điểm đó.
3. Khi Đức Cha Roncalli làm khâm sứ toà thánh tại Bungari, ngài nhận được một bức thư của một vị Linh mục chỉ trích về ngài nhiều mặt. Đọc xong bức thư, ngài không nói một lời, lòng vẫn yêu thương vị Linh mục kia. Thời gian trôi qua ngài được thăng chức Hồng Y, rồi đắc cử Giáo hoàng với danh hiệu Gioan XXIII. Có lần vị Linh mục kia được Đức Giáo hoàng tiếp kiến. Vị Linh mục rất lo lắng, sợ Ngài trách về chuyện cũ. Nhưng Đức Gioan XXIII không trách mà còn nói: “Cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người có nhiều khuyết điểm. Cha để bức thư của con vào cuốn Thánh Kinh và hằng ngày đọc vào đó mà xét mình. Mỗi lần như thế Cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con” (Mỗi ngày một tin vui).
4. Không gì trói buộc con người chúng ta chặt bằng tội lỗi. Không gì giải thoát chúng ta, ban cho chúng ta tự do trọn vẹn bằng sự thật chứa đựng trong Lời Chúa.
5. Thấy một thổ dân Phi Châu đang đọc sách, một người buôn Châu Âu hỏi xem anh đang đọc gì. Anh ta trả lời: “Đọc Thánh Kinh”. Nhà buôn buồn cười nói: “Thứ đó, ở xứ tôi đã lỗi thời rồi!” Người Phi Châu đáp: “Nếu ở đây mà Thánh Kinh lỗi thời, thì ông đã bị ăn thịt từ lâu rồi!”
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa là nguồn sự sống của chúng con. Chúng con tin và thờ lạy Chúa. Ngay từ khi dựng nên Adam, Chúa đã thổi hơi và thông truyền sự sống của Chúa cho con người. Thế nhưng, vì kiêu ngạo, tổ tông của chúng con đã đánh mất sự sống trường sinh mà Chúa đã ban trong khi tạo dựng.
Vâng lạy Chúa, hậu quả của tội tổ tông là sự chết đã đi và thế gian. Con người phải đau khổ vì lỗi lầm của mình gây ra. Con người đã bị những tham-sân-si trói buộc mình trong những đam mê thấp hèn, trong những ích kỷ kiêu căng. Thế nhưng tình thương của Chúa không muốn cho con người phải trầm luân muôn đời. Chúa đã nhập thể làm người để cứu chuộc chúng con, để phục hồi sự sống ban đầu, và tặng ban sự sống thần linh trong bí tích Thánh Thể, hầu dưỡng nuôi và dẫn con người đến sự sống đời đời.
Lạy Chúa Giêsu, là Đấng mà ai gặp gỡ cũng được Chúa biến đổi, thăng tiến. Những con người tội lỗi như Giakêu, như Madalêna, hay như người thiếu phụ bên bờ giếng Gia cóp đã tìm được niềm vui của sự hoán cải, của tha thứ và cảm thông. Những con người đang nặng trĩu những hoang mang lo lắng như hai môn đệ đi làng Emmau đã bừng sáng niền tin và hy vọng. Những trái tim chân thành như các tông đồ năm xưa đã tìm được lẽ sống để hân hoan bước đi theo Chúa. Tất cả những cảnh đời đó đã được biến đổi, được tăng thêm sức mạnh và nghị lực nhờ gặp được Chúa và trọn vẹn tín thác nơi Chúa.
Giờ đây trước tôn nhan Chúa, chúng con cũng mang khuôn mặt của những con người đầy khiếm khuyết tội lỗi, xin giải thoát chúng con khỏi những ràng buộc của tội lỗi, những đam mê bất chính để chúng con sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Xin cho chúng con biết mặc lấy tâm tình của Chúa để những ai gặp gỡ và tiếp xúc với chúng con cũng tìm được sự nâng đỡ, khích lệ và bình an. Amen.