Thứ Hai, 28 tháng 4, 2014

Tái sinh

Khi ấy, Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô rằng: "Thật, Tôi bảo cho ông biết: Ông đừng ngạc nhiên vì nghe Tôi nói rằng: Các ngươi phải tái sinh bởi trời. Gió muốn thổi đâu thì thổi, ông nghe tiếng gió, nhưng chẳng biết gió từ đâu đến và đi đâu: mọi kẻ sinh bởi Thần Linh cũng vậy". Nicôđêmô hỏi lại rằng: "Việc ấy xảy ra thế nào được?" Chúa Giêsu đáp: "Ông là bậc thầy trong dân Israel mà ông không biết điều ấy sao? Thật, tôi bảo thật cho ông biết: Điều chúng tôi biết thì chúng tôi nói; điều chúng tôi thấy thì chúng tôi minh chứng. Nhưng các ông lại không nhận lời chứng của chúng tôi. Nếu khi Tôi nói về những sự dưới đất mà các ông không tin, khi Tôi nói những sự trên trời, các ông tin thế nào được? Không ai lên trời được, ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Chúa Giêsu tiếp tục đối thoại với Nicôđêmô về việc tái sinh. Đại ý bài Phúc Âm hôm nay: “Sinh lại như thế nào”.
Nicôđêmô hỏi: “Việc ấy xảy ra thế nào được?”
Chúa Giêsu lại trả lời nhờ tác động của Thánh Linh (“Gió muốn thổi đâu thì thổi…mọi kẻ sinh bởi Thánh Linh cũng vậy”) và nhờ tin vào Chúa Giêsu (“không ai lên trời được ngoài người đã từ trời xuống, tức là Con Người vốn ở trên trời”).
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. “Tái sinh là cởi bỏ con người cũ, là trở thành như trẻ thơ là hoàn toàn chấp nhận lệ thuộc vào Thiên Chúa, là khước từ ý muốn tự cứu lấy mình bằng những cố gắng, những lý lẽ và phương tiện riêng của mình.” (Mỗi ngày một tin vui)
2. Mục sư Rober Fangum, trong một cuốn sách được sếp vào loại best seller (bán chạy nhất), đã viết: “những gì tôi cần biết, tôi đều học được lúc tôi còn ở nhà trẻ”. Ông kể ra những bài học vỡ lòng quý giá khi còn ở nhà trẻ như sau:
Hãy chia sẻ mọi sự, hãy chơi đúng luật, đứng làm tổn thương người khác, và nếu có xúc phạm đến ai thì hãy xin lỗi.
Lấy đâu thì trả đó, dọp dẹp những gì mình bày ra, nhất là không lấy những gì không thuộc về mình.
Biết ngạc nhiên trước mầu nhiệm của cuộc sống.
Chính Chúa Giêsu cũng dạy: “Nếu các con không nên giống như trẻ nhỏ, chúng con không được vào Nước trời”. (Trích “Chờ đợi Chúa”)
3. Thực ra biết bao nhiêu lần tôi muốn sinh lại thành con người mới, nhưng lực bất tòng tâm. Đó bởi vì việc sinh lại không chỉ bởi do sức riêng của tôi mà còn phải nhờ ơn Chúa.
4. Cũng như Môsê treo con rắn nơi hoang địa thế nào, thì Con Người cũng phải bị treo lên như vậy, để những ai tin vào Người, thì không bị tiêu diệt muôn đời.
Chuyện kể về hai cậu bé người Ấn độ, một theo đạo Hinđu và một theo đạo Công giáo. Cậu bé theo đạo Hinđu thì luôn tìm cách chê bai Thiên Chúa của cậu bé Công giáo. Một ngày kia, cậu bé theo đạo Hinđu lại nói: “Thiên Chúa của tôi thì quyền thế, mạnh mẽ, giàu có, chứ đâu nào như Thiên Chúa của bạn?”
Cậu bé Công giáo lắng nghe và ôn tồn đáp lại: “Nhưng Thiên Chúa của bạn thì không chết cho bạn còn Thiên Chúa của tôi thì chết cho tôi!”.
Lạy Chúa, Chúa đã chết và sống lại, để từ đây con không còn chết vì lối sống ích kỉ, kiêu căng thường gây ra chiến tranh. Nhưng được sống dồi dào nhờ biết cho đi, cảm thông và tha thứ. Lạy Chúa Giêsu, con tin Chúa đã chết và sống lại vì con. (Epphata)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con xin tạ ơn, chúc tụng và ngợi khen tình thương mà Chúa đã dành cho chúng con. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa đã đến và lưu lại trong tâm hồn chúng con. Xin Chúa cũng mang ơn thánh để thánh hoá và thanh tẩy tâm hồn chúng con nên xứng đáng là đền thờ của Chúa. Xin tái sinh chúng con bằng sức mạnh và quyền năng của Chúa để chúng con luôn được sống trong tự do của con cái Thiên Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã chết và sống lại, để từ đây khai mở mùa xuân thiên đàng cho nhân loại chúng con. Chúa đã chịu dương cao trên thập giá để từ đây chúng con không còn thất vọng trước những khó khăn và thử thách trong cuộc đời. Cái chết và sự phục sinh của Chúa đã thay đổi lối sống cho nhiều người và qua nhiều thế hệ. Cái chết của Chúa giúp chúng con biết chết đi cho tội lỗi, đam mê lầm lạc và sống lại trong con người mới là con cái Thiên Chúa. Xin giúp chúng con luôn biết thay đổi đời sống của mình cho phù hợp với phẩm giá làm người của mình và xứng đáng là con cái của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin giúp chúng con luôn biết hướng lòng về trời cao để can đảm từ khước những đam mê thấp hèn. Xin giúp chúng con biết chọn Chúa là lẽ sống, là gia nghiệp ngàn đời của chúng con. Amen.

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

Sinh bởi ơn trên

Bấy giờ, trong nhóm Pha-ri-sêu, có một người tên là Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh của người Do-thái. Ông đến gặp Đức Giê-su ban đêm. Ông nói với Người: "Thưa Thầy, chúng tôi biết: Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả vậy, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm, nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy." Đức Giê-su trả lời: "Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa, nếu không được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên."  Ông Ni-cô-đê-mô thưa: "Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được? Chẳng lẽ người đó có thể trở vào lòng mẹ lần thứ hai để sinh ra sao?" Đức Giê-su đáp: "Thật, tôi bảo thật ông: không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí. Ông đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói: các ông cần phải được sinh ra một lần nữa bởi ơn trên. Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy."
Suy niệm: 
Trong đoạn Phúc Âm hôm nay chúng ta hãy chú ý đến tinh thần và dung mạo của ông Nicôđêmô, một người thuộc nhóm Pharisiêu, tức biệt phái và là thủ lãnh của dân Israel. Hai chi tiết này cho chúng ta biết là dung mạo nhân bản và thiêng liêng của ông.
Nicôđêmô là một nhà trí thức thông biết Kinh Thánh Cựu Ước và đã thành danh, có địa vị trong dân Israel, có những đặc quyền và đặc ân trong xã hội và có những bổn phận phải chu toàn cũng như những lợi danh cần duy trì. Ðể duy trì danh thế này, ông Nicôđêmô không dám công khai đến với Chúa mà chỉ muốn đến với Chúa ban đêm để người ta đừng trông thấy, để khỏi bị phiền phức và để khỏi bị mất uy tín xã hội mà ông đang vui hưởng.
Nhìn từ bên ngoài và trên bình diện tự nhiên nhân bản, thì có thể nói một người như ông Nicôđêmô đã được thỏa mãn trọn đủ, công thành danh toại rồi, không còn phải nghĩ thêm gì nữa. Tuy nhiên, nếu xét thêm một chút nữa, chúng ta sẽ thấy được một khao khát sâu xa nơi tâm hồn của ông Nicôđêmô, khao khát về ý nghĩa cuối cùng của cuộc sống, khao khát một cuộc mạc khải trọn vẹn hơn về Thiên Chúa. Ông đã nghe biết giáo lý có uy tín của Chúa Giêsu nên đã dám gọi Chúa là một vị tôn sư và đã quan sát đúng việc lạ Chúa thực hiện và lý luận một cách tự nhiên là có Thiên Chúa hiện diện nơi con người mang danh Giêsu đây. Ông đã mở đầu cuộc đối thoại bằng một lời công nhận chân thành: "Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là một vị tôn sư được Thiên Chúa sai đến. Quả thật, chẳng ai làm được những dấu lạ Thầy làm nếu Thiên Chúa không ở cùng người ấy". Với thái độ sống như vậy, ông Nicôđêmô không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu. Nhưng điều mà cái nhìn phàm trần cho là lợi điểm của ông Nicôđêmô, tức sự hiểu biết của trí khôn, lại trở thành một cản trở, vì nếu muốn hiểu mọi sự nên ông Nicôđêmô chưa được chuẩn bị để đón nhận mầu nhiệm. Ông đã thắc mắc về ý nghĩa của việc sinh ra lại "Làm sao một người lớn tuổi mà có thể chui vào bụng mẹ để được sinh ra lại?"
Chúa Giêsu phải chuẩn bị thêm cho ông Nicôđêmô và long trọng xác nhận với ông rằng để theo Chúa, con người không thể ỷ lại vào sự hiểu biết hay vào lý lẽ khôn ngoan của con người. Cần phải được biến đổi bởi nước và Thánh Thần. Cần phải khiêm tốn lãnh nhận ân sủng Chúa ban và vâng phục sự soi sáng của Chúa Thánh Thần: "Không ai có thể thấy Nước Thiên Chúa nếu không được sinh lại bởi ơn trên, không ai có thể vào Nước Thiên Chúa nếu không sinh ra bởi nước và Thánh Thần." Bí tích rửa tội và ơn Chúa Thánh Thần là cửa ngõ mở vào Nước Thiên Chúa.
Cầu nguyện: 
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha vô cùng vì đã ban ơn Thánh Thần xuống để sửa lại mọi sự trong ngoài chúng con, xin giải thoát chúng con khỏi mọi tội lỗi và làm cho chúng con được sinh ra lại trong Chúa Kitô Phục Sinh. Xin Cha thương cho Chúa Thánh Thần hoàn tất trong mỗi người chúng con điều mà ân sủng bí tích Rửa Tội đã bắt đầu. Xin cho chúng con có thái độ khiêm tốn để lãnh nhận những sự thật do Chúa mạc khải và can đảm làm chứng cho Chúa trong mọi hoàn cảnh.
 

Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

Lòng Chúa xót thương

Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Điđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Đoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin".
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
 
Suy Niệm


Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi, không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua dọc dài lịch sử cứu độ.
Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: "Adam, Adam ngươi đang ở đâu?". Âm thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa. "Phải chăng ngưoi đã ăn trái cây trong vườn mà ta đã cấm?".
Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bầy cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem "đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì "họ không biết việc họ làm"; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: "ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta".
Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của Chúa Giêsu trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn "Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ" như sau:
Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, nên muốn thử bà ta và nói: lần sau bà có nói chuyện với Chúa thì hỏi xem, tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!
Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.
Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.
Có lẽ đây là vấn đề mà những người Kitô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy tăng, nhưng tội phạm thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: "năm nay cao hơn năm trước".
Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.
Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta hãy sám hối về lỗi phạm của mình và hãy dâng những hy sinh và lời cầu nguyện cho kẻ có tội được ơn trở về với Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng giầu long xót thương tha thứ và ban bình an cho mỗi người chúng ta. Amen.

Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

Tin Mừng Chúa Phục Sinh

 Khi Chúa Giêsu sống lại, sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna, kẻ đã được Chúa đuổi bảy quỷ. Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người  và nay đang buồn thảm khóc lóc. Họ nghe bà nói Chúa sống lại và bà đã thấy Người, nhưng họ không tin. Sau đó, Chúa lại hiện ra dưới hình thức khác với hai môn đệ đang trên đường về miền quê. Hai ông trở về báo tin cho anh em, nhưng họ cũng không tin các ông ấy. Sau hết, Chúa hiện ra với mười một tông đồ lúc đang ngồi ăn. Chúa khiển trách các ông đã cứng lòng, vì các ông không tin những kẻ đã thấy Người sống lại. Rồi Người phán: "Các con hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Phần cuối của Phúc Âm Máccô (cũng không do Máccô viết, mà do ai đó viết thêm vào), ghi tóm lược 3 cuộc hiện ra chính của Chúa Giêsu sau khi sống lại:
- Hiện ra cho Maria Mađalêna.
- Hiện ra cho hai môn đệ Emmaus.
- Hiện ra cho mười một tông đồ.
Đoạn Phúc Âm này nhấn mạnh:
- Thái độ không tin của các tông đồ (không tin những lời Mađalêna nói, cũng không tin hai môn đệ Emmaus)
- Chúa Giêsu khiển trách thái độ không tin ấy.
- Sau khi làm cho các ông tin, Chúa Giêsu sai ông "hãy đi khắp thế gian rao giảng Tin Mừng cho muôn loài".
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Sau khi khiển trách các môn đệ đã cứng lòng tin, rồi củng cố lại lòng tin đó, Chúa Giêsu mới sai các ông đi rao giảng. Rao giảng là chia sẻ niềm tin của mình cho người chưa tin hoặc đức tin còn yếu. Vì thế phải tin rồi mới rao giảng.
2. Các môn đệ đã không tin mặc dù nghe các phụ nữ kể lại việc Chúa hiện ra cho các bà. Các ông vẫn không tin khi nghe thêm hai môn đệ Emmaus thuật lại cuộc gặp gỡ của họ với Đấng phục sinh. Chỉ mãi đến lúc Chúa Giêsu đến thì các ông mới tin. Đức tin không do suy luận, không do có bằng chứng, nhưng đức tin là việc Chúa làm, do Chúa ban. Con cám ơn Chúa đã ban đức tin cho con. Con xin Chúa gìn giữ và củng cố đức tin của con.
3. Có một bà nổi tiếng đạo đức, nhân hậu và luôn bình tâm trước mọi thử thách. Một bà khác ở cách xa ít dặm, nghe nói thì tìm đến, hi vọng học được bí quyết để sống bình tâm và hạnh phúc. Bà hỏi:
- Thưa bà, có phải bà có một đức tin lớn lao?
- Ồ không, tôi không phải là người có đức tin lớn lao, mà chỉ là người có đức tin bé nhỏ đặt vào một Thiên Chúa lớn lao.
4. "Khi Chúa Giêsu sống lại… thì trước hết Người hiện ra với Maria Mađalêna… Bà đi báo tin cho những kẻ đã từng ở với Người và nay đang buồn thảm khóc lóc."
Tôi là Maria Mácđala. Mọi người sỉ vả, chê bai tôi. không ai dám đụng đến tôi vì sợ bị ô uế và lây nhiễm tội lỗi. Mọi cặp mắt khinh miệt đều hướng về tôi. Vậy mà khi gặp ngài, Ngài nhìn tôi với đôi mắt triù mến và đầy tình thương. Tôi không thể nào quên đôi mắt ấy, đôi mắt đã kéo tôi ra khỏi vũng bùn tội lỗi. Từ giây phút đó, tôi bước đi theo ngài, cùng với ngài rảo qua khắp các làng mạc, thành phố để truyền bá Phúc Âm.
Rồi ngài bị bắt, bị đem giết. Tôi bối rối, sợ hãi và tuyệt vọng. Các môn đệ của ngài cũng đã bỏ chạy. Nhưng ngài vẫn chưa được yên, cả đến xác ngài cũng bị đánh cắp khi tôi ra viếng mồ sau khi ngài chết vài ngày. Ôi cuộc đời của ngài như thế này sao? Vậy là chấm dứt, chấm dứt tất cả!
Trong cơn tuyệt vọng, Ngài gọi tôi "Maria". Vâng, chính là ngài. Không phải là cái xác tôi đang tìm mà là một Chúa Giêsu đang sống, sống thực sự. Nhiệm vụ của tôi bây giờ là phải đi loan báo cho mọi người biết tin vui này. Tôi không có quyền giữ lại niềm vui và hạnh phúc cho riêng mình. Chúa muốn mọi người cũng được hạnh phúc như tôi, được chia sẻ niềm hanh phúc này.
Chúa Giêsu ơi, Ngài đã sống lại, xin phục sinh tâm hồn con và cho con biết đem niềm vui phục sinh đến cho mọi người. (Epphata)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã sống lại sau ba ngày yên nghỉ trong mồ. Sự phục sinh của Chúa là niềm vui của các tông đồ, là nền tảng cho việc loan truyền Phúc Âm. Các tông đồ đã hân hoan ra đi loan báo một sứ điệp thật trọng đại: “Chúa đã sống lại”. Xin cho chúng con đủ đức tin để chúng con nhận ra Chúa vẫn hằng sống trong cuộc đời hôm nay. Xin giúp chúng con biết can đảm nói về sự phục sinh của Chúa cho anh em.
Vâng lạy Chúa, nếu cuộc đời này sinh ra rồi chết đi là hết một kiếp người, thì thật bất hạnh cho kiếp người chúng con. Một kiếp phù sinh vắn vỏi nhưng lắm truân chuyên. Một kiếp người vui ít nhưng buồn lại nhiều. Một kiếp người gặp nhiều bất công, oan trái hơn là công bình,nhân ái. Nhưng thật hạnh phúc cho chúng con khi chúng con biết rằng: quê hương thật chúng con ở trên trời. Nơi đó không có nước mắt của oan trái lầm than. Nơi đó chỉ có hạnh phúc trường sinh. Nơi đó sẽ trả lại công bằng cho những trái ngang của cuộc đời hôm nay. Xin giúp chúng con biết sống cao đẹp trong cuộc đời này để làm chứng về sự sống đời sau.
Lạy Chúa, Chúa đã sống lại, xin Chúa hãy phục sinh tâm hồn chúng con khỏi những đam mê trần thế, và xin giúp chúng con biết đem niềm vui phục sinh của Chúa đến cho mọi người. Amen.
 

Thứ Năm, 24 tháng 4, 2014

Nhận ra Chúa

Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay. Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách.
Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Phần cuối của Phúc Âm Gioan (có lẽ không do Gioan viết, mà do các đồ đệ của Gioan), tường thuật cuộc hiện ra cho các tông đồ trên biển hồ Tibêria:
1. Theo gợi ý của Phêrô, một số tông đồ khác trở lại nghề cũ là đi đánh cá.
2. Khi đó xảy ra lại một tình huống giống y lần đầu tiên Phêrô gặp Chúa Giêsu và được Ngài gọi: các ông không đánh được cá, nhưng nhờ Chúa Giêsu nên sau đó đánh được rất nhiều cá. (x. Lc 5,4-11)
3. Các tông đồ nhận ra Chúa Giêsu: đầu tiên là Gioan, kế đến là các ông khác.
4. Bữa ăn thân mật bên bờ hồ sau khi Thầy trò nhận ra nhau.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Trong những lần hiện ra với các môn đệ sau khi sống lại, Chúa Giêsu không bao giờ nói nửa lời trách móc tội các ông đã bỏ trốn và chối Ngài; cũng không có nửa lời ám chỉ, mà toàn là những lời dịu dàng, an ủi, khích lệ.
Các ông cũng không một lời xin lỗi Chúa, thế mà Chúa vẫn tha. Tha thứ đâu cần phải nói ra bằng lời, ăn năn cũng đâu cần thốt ra bằng tiếng. Chúa đến với ta, ta ở bên cạnh Chúa, thế là đủ.
2. Sự tha thứ của Chúa không diễn tả bằng lời, nhưng bằng thái độ: "Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ. Ngài cũng cho cá như thế".
3. "Người môn đệ Chúa Giêsu yêu liền nói với Phêrô: chính Chúa đó": Gioan là người đầu tiên nhận ra Chúa. Ông nhận ra Chúa nhờ một kỷ niệm mà mẻ cá lạ giúp ông nhớ lại. Khi đã yêu thì từng chi tiết, từng biến cố đều khiến ta nhớ đến người mình yêu. Xin cho con yêu Chúa đủ để mỗi sự lành trong ngày đều khơi lên kỷ niệm của con về Chúa.
4. Trong lòng Phêrô ngổn ngang nhiều tình cảm: mặc cảm phạm tội, hối hận, nhớ Chúa và mong gặp lại Ngài. Nhưng mạnh nhất là tình cảm mong nhớ Chúa. Bởi đó khi vừa nghe Gioan nói "Chúa đó", bao nhiêu tình cảm khác biến đâu mất hết, chỉ còn mỗi tình cảm muốn gặp lại Chúa. Vì thế ông "liền khoác áo vào rồi nhảy xuống biển" bơi tới Chúa. Dù con có thế nào đi nữa, nhưng xin cho con luôn nhớ Chúa và quên đi tất cả khi gặp lại Chúa.
5. Trong toán học, chúng ta đã biết tầm quan trọng của vị trí con số "không" trong tương quan với dấu chấm thập phân: số "một" càng bị nhiều số "không" ngăn cách nó xa dấu chấm thập phân thì giá trị của nó càng thấp. Thí dụ. 0.0000001.
Tuy nhiên nếu số một đứng đầu thì sau đó càng có nhiều số "không" chừng nào thì giá trị của nó càng cao chừng nấy. Thí du 1000000.
Chúa chính là số một. Khi ta đặt Chúa hàng đầu trước những công việc của ta thì ta càng làm nhiều chừng nào, giá trị chúng càng cao chừng nấy. Ngược lại Chúa càng xa tâm trí ta chừng nào thì công việc ta làm càng ít giá trị chừng nấy. (Frank Mihalic).
6. "Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu."
Mỗi ngày tôi học và làm việc theo một thời khóa biểu kín mít mà tôi tự đặt ra cho mình, tối về mệt quá tôi lăn ra ngủ. Tôi thường thấy mình rơi vào những khoảng trống, cảm thấy mình lạc lõng cô đơn và đâm ra chán nản. Thế rồi tôi được một vị "Kỹ sư tâm hồn" khuyên mỗi ngày nên dành cho Chúa một vài phút.
Từ đó mỗi tối trước khi ngủ, tôi đã dành ra ít phút để nhìn lại những ơn ban của một ngày sống và nhìn lại chính mình. Tôi thấy còn nhiều bóng tối phủ lấp tâm hồn tôi.
Thật hạnh phúc mỗi khi lên giường ngủ mà có thể mỉm cười với chính mình. Những giây phút tĩnh nguyện cuối ngày đã giúp tôi khám phá ra mầu nhiệm Chúa hiện diện và đồng hành với tôi trên khắp các nẻo đường.
Lạy Chúa, những bóng tối trong tâm hồn và những bận tâm khác đã khoả lấp làm con không  nhận ra được sự hiện diện sống động của Chúa. Một vài phút dành cho Chúa chẳng là gì so với 24 giờ của một ngày Chúa  đã ban cho con, thế mà con không biết! Cảm ơn Chúa, cảm ơn người "Kỹ sư tâm hồn" đã mở mắt cho con. (Epphata)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin rằng qua bí tích Thánh Thể, Chúa luôn hiện diện và đồng hành với chúng con trong cuộc sống. Xin cho chúng con có một đức tin đủ để chúng con mau mắn làm theo lời dạy của Chúa như các môn đệ năm xưa, nhờ đó mà các ông đã thu được mẻ cá kỳ diệu.
Lạy Chúa, trong cuộc sống thường ngày, chúng con không dám xin Chúa cất đi những nhọc nhằn, vì đó là thân phận tội lỗi của con người. Chúng con chỉ xin Chúa ban cho chúng con lòng tin mến, để giữa những nghịch cảnh cuộc đời, chúng con có thể nhận ra được sự hiện diện của Chúa và tìm được niềm vui của ơn trợ giúp của Chúa.
Xin cho chúng luôn làm chứng cho niềm tin vào Chúa phục sinh, khi chúng con dám tin yêu và hy vọng ngay trong những mất mát khổ đau. Khi chúng con dám sống quảng đại, yêu thương và tha thứ ngay trong những ích kỷ, hận thù ở thế gian.
Lạy Chúa Kitô Phục sinh, xin ban cho chúng con hồng ân nhận ra Chúa giữa những thử thách nghi nan để chúng con luôn tin yêu vào Chúa và làm chứng nhân cho tin mừng của Chúa. Amen.

Thứ Tư, 23 tháng 4, 2014

Đừng sợ

Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây" Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Đoạn Người phán: "Đúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh. Người lại nói: "Có lời chép rằng: Đấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Thánh Luca tiếp tục tường thuật cuộc hiện ra thứ hai của Chúa Giêsu Phục Sinh, lần này là hiện ra cho các tông đồ ở Giêrusalem:
1. Hai môn đệ Emmaus vừa trở về báo tin cho các tông đồ hay Chúa Giêsu đã sống lại.
2. Chúa Giêsu hiện ra:
- Ngài chứng minh cho các ông hiểu rằng sau khi sống lại, Ngài vẫn là một như trước (có tay chân xương thịt, biết ăn uống).
- Ngài cắt nghĩa bài học Thánh Kinh: Đức Kitô phải qua cái chết mới tới Phục Sinh.
- Ngài bảo các ông nhân Danh Ngài "rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân".
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. "Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây": Chúa Giêsu Phục Sinh đang sống và hiện diện bên cạnh tôi. Đây không phải chỉ là một kiểu nói, không phải chỉ là niềm tin, mà là sự thật. Chúa Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một. Tôi phải sống với niềm xác tín ấy.
2. "các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy": không những tôi phải sống với niềm xác tín rằng tôi đang sống với Chúa Phục Sinh đang hiện diện bên cạnh, mà còn phải làm sao cho cách sống đó khiến người ta nhìn vào mà cũng tin như vậy.
3. Một bề trên tu viện Công Giáo đến tìm một ẩn sĩ Ấn Giáo tại chân núi Hy Mã Lạp Sơn và trình bày về tình trạng bi đát của tu viện ông:
Trước kia tu viện này là một trung tâm thu hút nhiều khách hành hương. Nhà thờ lúc nào cũng vang tiếng hát của giáo dân từ khắp nơi đến. Trong tu viện không còn chỗ nhận thêm người vào tu hàng ngày đến gõ cửa nữa. Thế mà bây giờ tu viện chẳng khác nào một ngôi chùa hoang phế. Nhà thờ vắng lặng, tu sĩ thì leo teo mấy người, cuộc sống thật là buồn tẻ.
Vị bề trên hỏi tu sĩ Ấn Giáo cho biết nguyên nhân nào hay lỗi lầm nào đã đưa tu viện tới tình trạng trên đây. Tu sĩ Ấn Giáo ôn tồn bảo: "Các tội đã và đang xảy ra trong cộng đoàn đó là tội vô tình." Và ông giải thích: "Đấng Cứu Thế đã cải trang thành một người trong quý vị, nhưng quý vị không nhận ra Ngài."
Nhận được lời giải đáp, vị bề trên hớn hở trở về tu viện. Ông tập họp mọi người lại và loan báo cho họ biết Đấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà. Các tu sĩ đều mở to đôi mắt và quan sát nhau. Ai là Đấng Cứu Thế cải trang vậy ? Nhưng có điều chắc là một khi Ngài đã cải trang thì không ai có thể nhận ra Ngài được. Mỗi người trong họ đều có thể là Đấng Cứu Thế.
Vậy là từ đó mọi người đều đối xử với nhau như với Đấng Cứu Thế. Chẳng bao lâu, bầu khí yêu thương huynh đệ, sức sống và niềm vui đã trở lại với tu viện. Từ khắp nơi người ta lại tìm đến tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến xin gia nhập cộng đoàn. (Trích "Món quà Giáng Sinh")
4. "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ": Trong khoảng thời gian vắng Chúa, các môn đệ rất hoang mang và sợ hãi. Nay Chúa đã trở lại và đang ở với họ, họ tìm lại được bình an. Xin Chúa luôn ở với con, để ban cho con được bình an giữa bao xáo trộn của cuộc đời.
5. Chúa nói với họ: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy?"
Ở đời ai cũng sợ một điều gì đó. Hãy nói thật cho tôi biết bạn sợ cái gì nhất ? Còn tôi, tôi sợ cuộc sống nhất, tôi sợ tất cả những gì thuộc về cuộc sống này.
Bạn thử nghĩ xem, làm sao tôi tránh được lo sợ khi quanh tôi giá trị con người được tính bằng nhan sắc, tiền bạc, gia thế. Còn lẽ phải, sự công bằng lúc nào cũng thuộc về tay kẻ mạnh. Còn tình yêu ư? Tất cả chỉ là trò bịp bợm. nếu không nói là giải trí bản năng. Vị sự sinh tồn, vì hưởng thụ, vì lòng tham, vì ích kỷ... con người lao vào cấu xé lẫn nhau, làm khổ nhau.
Tôi sợ mình không đủ dũng cảm để đấu tranh dành lấy công bằng. Tôi sợ mình không đủ cao thượng để hy sinh nhường đường cho kẻ khác. Tôi sợ một ngày nào đó vì sự sinh tồn tôi phải bán tất cả để tìm lấy cho mình một chỗ đứng, khi đó tôi không còn là tôi nữa... Nỗi sợ hãi làm tôi không tin vào bất kỳ điều gì, tôi không tin vào tình người: tôi không tin người tốt sẽ được sống hạnh phúc.
Tôi không hiểu sống để làm gì, khi hiện tại tương lai tôi đầy ấp nỗi sợ hãi. Tôi muốn thoát khỏi sự sợ hãi, tôi muốn được bình an... và trong cơn hoảng loạn, tôi đã nghĩ đến cái chết... tôi quên mất mình đang sống mùa Phục Sinh, Phục Sinh của Đức Kitô.
Lạy Chúa, xin cho con thoát khỏi sự sợ hãi, biết can đảm vượt qua mọi thử thách để được lớn lên, trưởng thành trong vòng tay của Ngài. (Epphata)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin thờ Chúa ngự trong bí tích Thánh Thể. Chúng con tin rằng Chúa đến viếng thăm chúng con hằng ngày qua bí tích Thánh Thể. Xin Chúa cũng ban bình an cho chúng con như xưa Chúa đã ban cho các tông đồ trong những lần Chúa hiện ra với các ngài sau khi Chúa sống lại.
Lạy Chúa, xin cho con thoát khỏi sự sợ hãi, biết can đảm vượt qua mọi thử thách để được lớn lên, trưởng thành trong vòng tay quan phòng của Chúa. Xin tha thứ vì những lần chúng con còn ngại ngùng, sợ hãi không dám dấn thân vào con đường Chúa mời gọi chúng con bước đi. Vì con đường ấy có quá nhiều chông gai, thử thách. Con đường ấy đòi phải hy vinh, phải vác thập giá, phải chịu nhiều thua thiệt, có khi mất cả mạng sống.
Xin cho chúng hiểu rằng, bên trên gai nhọn là đoá hồng rực rỡ. Bên trên những thử thách gian nan là triều thiên chiến thắng vinh quang mà Chúa đã dành sẵn cho những ai trung tín theo Ngài. Amen.

Thứ Ba, 22 tháng 4, 2014

Chúa đồng hành

Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Đang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp". Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Đấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Đoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Đang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Đoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Sau Thánh sử Matthêu và Gioan đã tường thuật bài Phúc Âm hai ngày trước, bài Phúc Âm hôm nay đến phiên thánh Thánh Luca tường thuật. Phúc Âm Luca được gọi là "Phúc Âm của người môn đệ", nên Luca tường thuật tác động việc Chúa Giêsu chết và sống lại nơi các môn đệ.
1. Có hai môn đệ, nhưng Luca chỉ nêu tên một người là Clêôpha, người kia không tên, có lẽ Luca muốn độc giả hiểu người vô danh ấy là bất cứ môn đệ nào, độc giả có thể coi mình chính là người môn đệ ấy và chia xẻ cảm nghiệm của người môn đệ ấy.
2. Cái chết của Chúa Giêsu đã khiến người môn đệ hoang mang, bỏ cuộc hành trình theo Chúa để trở về quê.
3. Nhưng Chúa Giêsu phục sinh không bỏ họ. Ngài vẫn đồng hành với họ dù họ không nhận ra Ngài.
4. Chúa Giêsu dùng Thánh Kinh và việc "bẻ bánh" (Hy lễ Tạ ơn, Bí tích Thánh Thể) để làm sống lại niềm tin nơi họ.
Ý chính của tường thuật này: Chúa Giêsu phục sinh vẫn đang sống, Ngài ở kề bên chúng ta, Ngài vẫn đồng hành với chúng ta. Hai nơi thuận tiện nhất để ta nhận ra Ngài là Thánh Kinh và Thánh lễ.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Khi không nêu tên người môn đệ kia, Thánh Luca muốn ta hiểu rằng mỗi người chúng ta cũng có thể là người môn đệ ấy, nên cũng có thể chia xẻ cảm nghiệm của môn đệ ấy về Chúa Giêsu phục sinh: Chúa Giêsu phục sinh vẫn đang sống và đang đồng hành với chúng ta trong hành trình đời ta mặc dù con mắt xác thịt của ta không nhận ra Ngài. Những nơi ưu tiên ta có thể gặp thấy Ngài là Thánh Kinh và Thánh lễ.
2. "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Một lời rất hay, ta có thể dùng làm lời cầu nguyện mỗi khi cảm thấy cảnh đời như màn đêm tăm tối đang phủ dần xuống chúng ta.
3. Muốn đọc Thánh Kinh với một tâm hồn cháy bừng lên, ta hãy đọc với Chúa Giêsu Kitô.
Một bà kia rất thường đọc Sách Thánh và đọc rất sốt sắng. Khi được hỏi tại sao thì bà dùng một thí dụ để giải thích:
Hôm qua tôi nhận được một bức thư của một người tôi rất quý mến. Tôi đã đọc rất chăm chú và đọc đi đọc lại tới 5 lần. Không phải vì tôi không hiểu lời lẽ trong thư vốn đã quá rõ, nhưng vì tôi biết đó là những lời của một người rất thương tôi và tôi cũng rất thương người đó (United Presbyterian).
4. "Để làm sống lại đức tin đã bị lung lay, người môn đệ cần có 3 yếu tố: Thánh Kinh, bí tích Thánh Thể, cộng đoàn sống đức tin... Khi đức tin của chúng ta bị lung lay, bị thử thách, chúng ta cần kiểm điểm lại xem chúng ta có thái độ nào đối với Lời Chúa, chúng ta sống bí tích Thánh Thể ra sao, chúng ta hợp nhất với cộng đoàn tuyên xưng đức tin thế nào" (Trích "Mỗi ngày một tin vui").
5. Tôi rất quý bạn bè. Chỉ mong sao bạn được hạnh phúc: Những gì có thể làm cho bạn vui hơn được một chút, là tôi nguyện cố gắng. Nhưng trước nỗi buồn chán, thất vọng của bạn, tôi thật lúng túng, vụng về có khi cũng "xìu" luôn.
Hôm nay, Thánh Luca cho thấy Chúa Giêsu Phục sinh là người bạn tuyệt vời.
Hai môn đệ trên đường Emmau cũng là những người bạn của Chúa. Họ đang chán chường, thất vọng, buông xuôi tất cả. Thế mà Chúa đã giúp họ vui mừng chỗi dậy, quay lại Giêrusalem... Thất vọng thành hy vọng tràn trề.
Chúa Giêsu đã làm gì?
Ngài đến và cùng đi với họ. Gợi cho họ thổ lộ nỗi lòng và giải thích Kinh Thánh cho họ nghe, cảm thông, đồng bàn với họ. Chia sẻ cơm bánh với họ. Ngài đã đồng hành với ho trong vui mừng và hy vọng, ưu  sầu và lo lắng của họ.
Lạy Chúa, xin cho con là người bạn tốt lành của anh em, bằng cách đồng hành với họ trên mọi nẻo đường cuộc sống. (Epphata)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tạ ơn Chúa đã liên kết chúng con nên một trong Chúa. Qua bàn tiệc Thánh Thể, chúng con được chia sẻ với nhau một bữa ăn huynh đệ mà chính Chúa đã dọn cho chúng con là Mình Thánh và Máu Thánh Chúa. Cũng chính nơi bàn tiệc này chúng con mới nhận ra chúng con là anh em với nhau con một Cha trên trời.
Lạy Chúa, năm xưa Chúa đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Sự đồng hành này đã nâng đỡ họ và giúp họ tìm lại niềm vui và hy vọng trong cuộc sống. Xin cho chúng con luôn là những người bạn tốt lành của nhau, bằng cách đồng hành với nhau trên mọi nẻo đường cuộc sống. Xin giúp chúng con đừng bao giờ dửng dưng như khách lạ với tha nhân, nhưng luôn liên kết, cảm thông và nâng đỡ những rủi ro, bất hạnh của tha nhân. Xin giúp chúng con đừng bao giờ chỉ tìm niềm vui nơi mình nhưng luôn nghĩ đến thiện ích cho tha nhân.
Lạy Chúa, sự đồng hành của Chúa trên đường Emmau đã đánh tan thất vọng, lo âu trong tâm hồn các môn đệ, xin cũng ban cho chúng con sự bình an và ơn thánh qua bí tích Thánh Thể mà chúng con vừa được hân hạnh đón rước vào trong tâm hồn. Amen.

Thứ Hai, 21 tháng 4, 2014

Tỉnh thức

Khi ấy, bà Maria đang còn đứng gần mồ Chúa mà than khóc. Nhìn vào trong mồ, bà thấy hai thiên thần mặc áo trắng đang ngồi nơi đã đặt xác Chúa Giêsu, một vị ngồi phía đàng đầu, một vị ngồi phía đàng chân. Hai vị hỏi: "Tại sao bà khóc?" Bà trả lời: "Người ta đã lấy mất xác Chúa tôi và tôi không biết người ta đã để Người ở đâu?" Vừa nói xong, bà quay mặt lại, thì thấy Chúa Giêsu đã đứng đó, nhưng bà chưa biết là Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: "Bà kia, sao mà khóc, bà tìm ai?" Tưởng là người giữ vườn, Maria thưa: "Thưa ông, nếu ông đã mang xác Người đi, thì xin cho tôi biết ông đã đặt Người ở đâu, để tôi đến lấy xác Người". Chúa Giêsu gọi: "Maria". Quay mặt lại, bà thưa Người: "Rabboni!" (nghĩa là "Lạy Thầy!"). Chúa Giêsu bảo bà: "Đừng động đến Ta, vì Ta chưa về cùng Cha Ta. Nhưng hãy đi báo tin cho các anh em Ta hay và bảo họ rằng: Ta về cùng Cha Ta, cũng là Cha các con; về cùng Thiên Chúa Ta, cũng là Thiên Chúa các con". Maria Mađalêna đi báo tin cho các môn đệ rằng: "Tôi đã trông thấy Chúa và Chúa đã phán với tôi những điều ấy".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Bài tường thuật của Gioan, cũng thuật về những chuyện sáng ngày Phục Sinh, đặc biệt về Maria Mađalêna:
1. Khi thấy ngôi mộ trống, Maria Mađalêna “khóc” và “tìm” xác Chúa Giêsu.
2. Hai thiên thần hỏi lý do bà khóc. Hai vị chỉ hỏi chứ chưa nói Chúa Giêsu sống lại.
3. Chính Chúa Giêsu hiện ra cho bà: ban đầu bà không nhận ra Ngài, khi Ngài gọi tên bà thì bà liền nhận ra. Ngài giải thích ý nghĩa việc sống lại: “Ta về cùng Cha Ta cũng là Cha của các con, về cùng Thiên Chúa cũng là Thiên Chúa của các con”.
4. Maria Mađalêna báo Tin Mừng Chúa Phục Sinh cho các môn đệ.
B- Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Việc Chúa Giêsu Phục Sinh đã biến đổi hẳn ý nghĩ và tình cảm của con người (bà Maria Mađalêna chính là đại diện) trước cái chết: nếu không tin việc Phục Sinh, chúng ta đau buồn than khóc trước cái chết của một người thân và tiếc nuối đi tìm thân xác họ, khi đã có niềm tin Phục Sinh, chúng ta sẽ không còn than khóc và sẽ không tìm người sống nơi kẻ chết nữa.
2. Bà De Gaulle cho gọi một nhân viên mai táng đến, bảo tìm nơi an nghỉ cuối cùng cho người chồng đã quá cố. Người này thân hành chở bà đến sườn đồi, trước mặt là một thung lũng tuyệt đẹp. Ông nói: “Đây là nơi an nghỉ rất xứng đáng với người chồng vĩ đại của bà, và cũng chỉ tốn 200.000 francs”. Trong lúc bà còn đang phân vân, ông ta nói tiếp: “Ông nhà thật xứng đáng hưởng sự ưu đãi đó”. Bà đáp: “Nhưng ông ấy chỉ cần 3 ngày thôi mà!”. (Góp nhặt).
3. Tình cảm của bà Maria Mađalêna đối với Chúa Giêsu rất đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc và cả thế giới này không còn ý nghĩa gì đối với bà nữa: bà không tìm gì khác ngoài xác của Chúa Giêsu, không nhận ra ai khác (các thiên thần, chính Chúa Giêsu mà bà tưởng là người giữ vườn). Khi Chúa gọi tên, bà nhận ra Chúa rồi sau đó vui mừng chạy đi báo cho mọi người. Tóm lại, đối với Maria Mađalêna, Chúa Giêsu là tất cả, mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ, gặp lại Chúa là gặp lại niềm vui.
4. Dù Maria không còn thấy gì và không còn nhận ra ai nữa cả, nhưng Chúa Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại. “Ta biết các chiên Ta… các chiên Ta biết Ta…” Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận biết Ngài không?
5. Một sinh viên Cao Đẳng đến thực tập tại một trường nọ. Chỉ trong hai tuần, anh ta nhớ tên tất cả các học sinh trong lớp. Anh gọi từng em như một người bạn thân.
Sau khi tốt nghiệp, anh lại được phân công về dạy tại trường đó. Lập tức, tất cả các học sinh thân yêu tụ tập xung quanh anh. Anh chỉ và gọi đích danh từng em. Các em rất vui mừng.
Tất cả các em đều được gọi nhưng chỉ có một em mà anh không thể nhớ tên. Em xấu hổ bỏ chạy và khóc. Anh rất ngượng ngùng. Quả thật, tên người thật quan trọng. (Góp nhặt)
6. Chúa Giêsu đã hỏi Maria: “Tại sao con khóc?” và Ngài đã biến nỗi buồn của bà thành niềm vui. Nỗi buồn nào đang khiến tôi phải khóc thầm? Hãy dâng cho Chúa và xin Ngài hãy biến nó thành niềm vui.
7. Vì yêu mến Chúa, đôi khi tôi cũng thấy buồn vì không thấy Chúa: chung quanh tôi hình như không có chỗ cho Chúa ở, trong xã hội, trong những công việc và những con người. Xin cho thêm nhiều người biết Chúa, xin cho người ta biết dành chỗ cho Chúa trong việc làm và trong cuộc sống.
8. “Chúa Giêsu gọi bà: “Maria” bà quay lại và nói: “Rabboni” nghĩa là lạy Thầy”. Chúa Giêsu bảo: “thôi đừng giữ Thầy lại… nhưng hãy đi gặp anh em Thầy”.
“Này các chị có nghe điện thoại reo không? Sao tôi gọi mãi mà không có ai nhấc máy lên nghe vậy?” Từ dưới sân lầu, giữa trời nắng gắt, tiếng chị H. trực phòng khách lanh lảnh vang lên. Thật ra không phải chúng ta không nghe, nhưng ai cũng ngại nhấc máy. Vì đã nghe rồi thì sau đó phải “thông tin” lại cho người có liên quan hay phải đi gọi người dùm cho chị H.
Nhưng hôm nay, lời chị đánh động tôi rất nhiều. Vì đối với Chúa tôi cũng có thái độ như thế. Biết bao lần tôi đã dửng dưng trước những “cú phone” Chúa gọi cho tôi. Tôi không muốn nghe vì ngại phải thi hành những “sứ điệp” của Chúa sẽ truyền dạy tôi. Cũng có thể nhiều lần Chúa gọi tôi ở đầu dây bên kia, nhưng tôi bận nghe hay nói với người khác ở đầu dây bên này. Như thế làm sao tôi có thể nghe được “điện thoại” của Chúa?
Lạy Chúa, giữa thế giới đầy bận rộn và náo nhiệt này, xin cho tai con biết lắng tai nghe tiếng Chúa. Xin hãy mở rộng đôi tay còn khép kín của con, để con mau mắn thi hành “sứ điệp” Chúa gửi đến cho con trong cuộc sống hằng ngày. Amen. (Epphata)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con thật vui sướng và hạnh phúc vì Chúa luôn ở bên cạnh chúng con. Chúa hiện diện bên cuộc đời chúng con như Lời Chúa đã hứa: “Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chúa biết rõ từng người chúng con như người mục tử biết rõ từng con chiên. Chúa gọi tên từng người chúng con như Chúa đã gọi tên Maria Madalena khi bà ra thăm mồ Chúa.
Lạy Chúa, thế giới hôm nay đầy náo nhiệt và bận rộn. Tâm hồn chúng con bị chao đảo bởi biết bao những huyên náo của thú vui trần thế. Có biết bao cám dỗ mời mọc chúng con vào con đường tội lỗi. Có biết bao đam mê khiến chúng con lầm đường lạc lối. Có biết bao con đường dẫn chúng con xa lìa sự sống đời đời. Xin Chúa hãy thứ tha. Xin cho chúng con tin rằng: Chúa đang đứng bên cạnh chúng con và gọi tên chúng con. Xin hãy gọi chúng con ra khỏi bến mê tội lỗi. Xin hãy gọi chúng con để thức tỉnh trước những cạm bẫy của thế gian. Xin cho chúng con biết nhận ra tiếng Chúa và mau mắn thi hành thánh ý Chúa.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin giúp chúng con luôn nhiệt tâm tìm kiếm Chúa như thánh nữ Maria Madalena, nhờ đó chúng con cũng trở thành sứ giả loan báo tin vui Chúa Phục sinh cho trần thế. Amen.

Chủ Nhật, 20 tháng 4, 2014

Báo tin cho anh em

Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta". Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay.
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Thánh Mátthêu thuật lại những chuyện xảy ra vào buổi sáng Phục Sinh:
1. (Các phụ nữ đến mồ, thấy mồ trống. Gặp Thiên Thần, Thiên Thần cho hay Chúa Giêsu đã sống lại và bảo các bà đi báo tin cho các môn đệ cùng bảo họ Chúa Giêsu chờ họ tại Galilê). Trong tâm trạng vừa sợ vừa vui mừng, các bà chạy đi báo tin cho các môn đệ.
Tâm trạng sợ hãi: không phải là sợ hãi, mà là nỗi sợ tôn giáo, tâm trạng của người ý thức Thiên Chúa đang có mặt và hoạt động. Vậy các bà “sợ” nghĩa là các bà ý thức Thiên Chúa đã làm cho Chúa Giêsu sống lại.
Vui mừng: vì Thầy mình đã sống lại.
2. Đang khi các bà chạy đi báo tin thì Chúa Giêsu hiện ra. Câu đầu tiên của Ngài là “đừng sợ”. Rồi Ngài lặp lại lời Thiên Thần: Hãy đi báo tin cho các môn đệ, bảo họ rằng Ngài chờ họ ở Galilê.
“Đừng sợ”: Trong Thánh Kinh, từ Cựu Ước tới Tân Ước, khi hiện ra với loài người, Thiên Chúa (hay Thiên Thần) đều nói “đừng sợ” (x. St 15,1 26,24 46,3; Tl 6,23; Lc 1,12.30 2,10; Mt 14,27…). Nếu như “sợ” là tâm trạng của con người khi biết mình đang ở trước mặt Thiên Chúa vì thấy mình bất xứng, thì lời nói “đừng sợ” có nghĩa là Thiên Chúa tự xóa khoảng cách giữa Ngài với loài người; hơn nữa, Thiên Chúa đem lại cho loài người sự bình an và vui mừng.
Khi nói về các môn đệ, Chúa Giêsu gọi họ là “anh em”: sự Phục Sinh của Chúa Giêsu đã nâng mối liên hệ giữa Ngài với các môn đệ lên một bậc: họ trở thành anh em của Ngài.
3. Phản ứng của giới thượng tế và kì lão: đút tiền cho bọn lính canh để mua chuộc họ xuyên tạc sự thật về Chúa Giêsu sống lại.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. “Đừng sợ”: từ nỗi “sợ hãi” trong lúc Chúa Giêsu chịu nạn chịu chết, các bà đã chuyển sang “kính sợ” khi nhận thấy quyền năng Thiên Chúa. Lòng “kính sợ” đi kèm với nỗi “hớn hở vui mừng”. Khi ta thực sự tin vào quyền năng Chúa, ta sẽ không còn “sợ hãi” bất cứ điều gì nữa, thậm chí còn có thể “hớn hở vui mừng” trong bất cứ tình huống nào, kể cả cái chết.
2. Một cụ già còng lưng vì tuổi tác và vất vả đang gom củi trong rừng. Ông nghĩ về thân phận mình và cảm thấy chán chường. Ông ném bó củi xuống và than vãn: “cuộc sống cơ cực quá, không thể chịu nổi nữa! Ước gì thần chết rước tôi đi!”.
Vừa nói xong thần chết xuất hiện với bộ xương trong chiếc áo đen đứng trước mặt ông và nói: “Ta nghe ngươi gọi, Ta có thể giúp ngươi điều gì?”. Ông già kinh sợ nói: “Ngài có thể giúp tôi đặt bó củi này lên vai không?” (Góp nhặt).
3. Chúa Giêsu Phục Sinh đã gọi các môn đệ là “anh em” của Ngài: sự Phục Sinh của Chúa đã cứu chuộc tội lỗi của loài người, ban lại cho loài người quyền làm con Thiên Chúa như Chúa Giêsu. Tạ ơn Thiên Chúa và Chúa Giêsu.
4. Một giáo viên cấp II đang vào sổ hai cậu học sinh mới chuyển trường. Cô thấy tên họ của chúng giống nhau, dáng người và quần áo như nhau nên hỏi:
- Hai anh em sinh đôi phải không?.
- Không.
Rồi cô đọc thấy ngày tháng năm sinh của chúng chỉ cách nhau sáu tháng. Cô lại hỏi:
- Hai anh em họ phải không?.
- Không, chúng em là anh em ruột.
- Ồ, cô nghĩ có sự nhầm lẫn trong việc ghi ngày sinh của các em. Hai anh em về nói mẹ ghi lại ngày sinh của mình rồi đưa lại cho cô vào sáng mai nhé?
- Tại sao vậy?
- Bởi vì nếu hai anh em không sinh đôi mà lại là anh em ruột, thì Nam không thể lớn hơn Tâm có sáu tháng.
Hai cậu nhìn nhau. Rồi Nam quay lại, mỉm cười nói với cô giáo: “Nhưng em không phải là người lớn hơn; vì cô biết đó, một trong hai chúng em là con nuôi. Nhưng chúng em không biết ai là con nuôi.” (Góp nhặt).
5. “Phúc Âm hôm nay đề cập tới hai thái độ khác nhau trước biến cố Phục Sinh: Một là của các phụ nữ, một là của nhóm lính canh. Đối diện với ngôi mộ trống, các phụ nữ nhận ra dấu chỉ của Tin Mừng Chúa Phục Sinh và khởi điểm cho niềm hy vọng. Tuy lo âu nhưng họ cũng vui mừng vội vã đi báo tin cho các môn đệ. Còn đối với nhóm lính canhngôi mộ trống đã không là khởi điểm của sự tìm kiếm và tin tưởng, mà còn khiến họ xa rời niềm tin, chỉ vì sợ hãi và vì chút lợi lộc…
Kitô hữu là người đối diện với Tin Mừng Chúa Phục Sinh và được trao cho nhiệm vụ đi loan báo cho người khác tin vui này… Tuy nhiên, như nhóm lính canh, có thể vì sợ hãi trước quyền lực trần thế, hay vì một chút lợi lộc, họ đành tâm phản bội và đi ngược lại với Phúc Âm, và do đó cho đến nay vẫn còn những hiểu biết lệch lạc về Chúa Kitô và về Giáo Hội” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
6. Tình yêu đã chiến thắng; Sự thật đã lên ngôi.
Bạn và tôi hãy xóa đi hận thù, tranh chấp; hãy xa lánh mọi điều dối gian, để thế giới và nhân loại được Phục Sinh nơi Ngài.
Ước gì niềm vui của Đấng Phục Sinh tràn ngập trong con, để con đem sinh khí cho người tuyệt vọng, đem nụ cười cho kẻ khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui hạnh phúc đến cho mọi người, xây thiên đàng ngay trần thế hôm nay. (Ephata, Ban mục vụ giới trẻ TpHCM).

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mỗi lần chúng con được rước Chúa là một lần chúng con được đón nhận chính sức sống Phục sinh của Chúa tuôn trào trong chúng con. Xin cho chúng con được tràn ngập niềm vui như xưa Chúa đã ban cho các người phụ nữ ra thăm mồ Chúa trong ngày Chúa sống lại.
Ngày đó, họ ra mồ với tâm trạng buồn phiền lo âu, và thất vọng, nhưng khi hay tin Chúa đã sống lại, nỗi lo âu đã trở thành niềm vui. Sự thất vọng, buồn phiền đã tiêu tan để nhường lối cho hy vọng và tươi vui. Ước gì niềm vui được đón rước Chúa Phục sinh ngự đến trong tâm hồn chúng con lúc này, cũng biến đổi chúng con thành những chứng nhân cho niềm hy vọng, để chúng con mang niềm vui đến cho những ai đang tuyệt vọng, đem nụ cười đến cho kẻ khóc than, làm tươi trẻ những tâm hồn héo úa, dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem niềm vui hạnh phúc đến cho mọi người, và biết kiến tạo hạnh phúc thiên đàng ngay trần thế hôm nay qua những nghĩa cử hy sinh, bác ái, và vị tha.
Nguyện xin Chúa phục sinh chúc lành cho những ước nguyện của chúng con. Amen.

Thứ Sáu, 18 tháng 4, 2014

Mọi sự hoàn tất

LM: Bài Thương Khó Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
NK: Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đấy với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng:
LM: "Các ngươi tìm ai?"
NK: Chúng thưa lại:
M-DC: "Giêsu Nadarét".
NK: Chúa Giêsu bảo:
LM: "Ta đây".
NK: Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng:
LM: "Các ngươi tìm ai?"
NK: Chúng thưa:
M-DC: "Giêsu Nadarét".
NK: Chúa Giêsu đáp lại:
LM: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi".
NK: Như thế là trọn lời đã nói: Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con. Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng:
LM: "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!"
NK: Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô:
M-DC: "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?"
NK: Ông đáp:
M-DC: "Tôi không phải đâu".
NK: Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp:
LM: "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói".
NK: Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói:
M-DC: "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư".
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?"
NK: Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông:
M-DC: "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?"
NK: Ông chối và nói:
M-DC: "Tôi không phải đâu".
NK: Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng:
M-DC: "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?"
NK: Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói:
M-DC: "Các ngươi tố cáo người này về điều gì".
NK: Họ đáp:
M-DC: "Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan".
NK: Philatô bảo họ:
M-DC: "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông".
NK: Nhưng người Do-thái đáp lại:
M-DC: "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả".
NK: Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi:
M-DC: "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?"
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?"
NK: Philatô đáp:
M-DC: "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?"
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này".
NK: Philatô hỏi lại:
M-DC: "Vậy ông là Vua ư?"
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi".
NK: Philatô bảo Người:
M-DC: "Chân lý là cái gì?"
NK: Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ:
M-DC: "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?"
NK: Họ liền la lên:
M-DC: "Không phải tên đó, nhưng là Baraba".
NK: Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người, và chúng mặc cho Người một áo đỏ. Rồi chúng đến gần Người và nói:
M-DC: "Tâu Vua Do-thái!"
NK: Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói:
M-DC: "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án".
NK: Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ:
M-DC: "Này là Người".
NK: Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to:
M-DC: "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!"
NK: Philatô bảo họ:
M-DC: "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông".
NK: Người Do-thái đáp lại:
M-DC: "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa".
NK: Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu:
M-DC: "Ông ở đâu đến?"
NK: Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người:
M-DC: "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?"
NK: Chúa Giêsu đáp:
LM: "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn".
NK: Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên:
M-DC: "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa".
NK: Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân:
M-DC: "Đây là vua các ngươi".
NK: Nhưng họ càng la to:
M-DC: "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!"
NK: Philatô nói:
M-DC: "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?"
NK: Các thượng tế đáp:
M-DC: "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa".
NK: Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh. Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
M-DC: Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'".
NK: Philatô đáp:
M-DC: "Điều ta đã viết là đã viết".
NK: Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau:
M-DC: "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy".
NK: Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó. Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng:
LM: "Hỡi Bà, này là con Bà".
NK: Rồi Người lại nói với môn đệ:
LM: "Này là Mẹ con".
NK: Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói:
LM: "Ta khát!"
NK: Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói:
LM: "Mọi sự đã hoàn tất".
NK: Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
LM: (Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
NK: Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
"Chúa Giêsu nói: 'Mọi sự đã hoàn tất!' Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.” (Ga 19,30)
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Thánh Gioan có một cái nhìn đặc biệt với cuộc chịu nạn của Chúa Giêsu. Thánh Giá không chỉ là con đường dẫn tới vinh quang:
- Đó là “giờ” mà từ lâu Chúa Giêsu hằng nghĩ tới và chuẩn bị, là thời điểm vinh quang mà vận động viên marathon chạy về tới đích để đoạt chiếc cúp vàng.
- Do đó Gioan cho thấy Chúa Giêsu bước vào cuộc chịu nạn một cách đầy ý thức và chủ động. Gioan luôn lập đi lập lại những chữ “Ngài biết”. Chúa Giêsu biết trước những gì sắp xảy đến. Ngài luôn làm chủ những diễn biến.
- Trên Thánh Giá Chúa Giêsu trở thành “Vua” và lấy lại vinh quang Ngài vốn có nơi Chúa Cha.
Từ Thánh Giá, Ngài:
+ Kéo mọi người lên với Ngài.
+ Sinh ra Hội Thánh.
+ Ban cho Hội Thánh một người Mẹ là Đức Trinh Nữ Maria.
+ Tuôn tràn thánh linh xuống cho Hội Thánh.
Bởi đó, khi chúng ta cùng Gioan đi theo những chặng đường Thánh Giá Chúa Giêsu, tâm tình của chúng ta phải có lạc quan và biết ơn.
B- Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Chính vì Chúa Giêsu luôn ý thức và chủ động trong mọi diễn biến của cuộc chịu nạn mà cuộc chịu nạn này mới có giá trị. Những đau khổ của chúng ta cũng thế.
2. Đối với Chúa Giêsu, Thánh Giá là vinh quang. Thánh Phalô cũng nói “Vinh dự của chúng ta là Thánh Giá Đức Kitô”. Xin Chúa giúp chúng con có thể nói được như thế.
3. Khi George Nixon Biggs làm Thống Đốc bang Massachusetts, có 3 người bạn của ông đi viếng thánh địa. Họ leo lên đỉnh núi Gôngôtha, bẻ một nhánh cây làm gậy. Khi trở về, họ tặng vị Thống Đốc cây gậy và nói: “Chúng tôi muốn ngài biết cho rằng, khi đứng trên đỉnh đồi Canvê, chúng tôi đã nghĩ tới ngài”. Thống Đốc hết lòng cảm ơn họ, ưu ái nhận quà tặng và nói thêm: “Nhưng thưa các bạn, tôi còn nghĩ xa hơn: ở đó, có một Đấng khác cũng đã nghĩ tới tôi.” (Góp nhặt).
4. Có một lần nhà truyền giáo hỏi lớp Giáo Lý Thánh Kinh: “Nếu các bạn thấy một nhóm 12 người đàn ông rất giống nhau, trong đó có Đức Kitô, làm sao các bạn nhận ra Ngài?” Nhiều người bảo không biết. Nhưng một em bé nói: “Nhờ những dấu đanh trên tay Ngài.” (Góp nhặt).
Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa không phải là “một kết liễu” nhưng là “một hoàn tất”. Chúa đã chu toàn sứ mệnh Chúa Cha trao phó cách tuyệt hảo. Xin cho chúng con cũng biết chu toàn bổn phận của người Kitô hữu, dám hy sinh và hành động theo những đòi hỏi của Chúa cho dù phải đi vào con đường Thập Giá. Amen.

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa, Chúa đã dạy con: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13); và Chúa đã hành động cụ thể để nêu gương cho chúng con. Con phải cảm tạ ơn Chúa dường nào, vì Chúa đã thương chỉ cho con con đường thẳng và vững chắc để lên nước Trời: Con đường Thánh Giá!
Chúa đã cứu con bằng đau khổ và con không thể rỗi linh hồn nếu không đi qua Núi Sọ. Xin ban cho con ơn sức mạnh, nhẫn nhục và can đảm chịu đựng những đau khổ của thân phận con. Con xin khắc sâu dấu chỉ tình yêu này vào tâm khảm con, để Thánh Giá cuộc sống con là Thánh Giá tràn đầy yêu thương và tự do chân chính.

Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

Phản bội

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và thưa với họ: "Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?" Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất trong tuần lễ ăn Bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?" Chúa Giêsu đáp: "Các con hãy vào thành đến với một người kia, và nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông". Các môn đệ làm như Chúa Giêsu đã truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua.
Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ. Và khi các ông đang ăn, Người nói: "Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy". Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người: "Thưa Thầy, có phải con không?" Người trả lời: "Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ sẽ nộp Thầy. Thật ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!"
Giuđa kẻ phản bội cũng thưa Người rằng: "Thưa Thầy, có phải con chăng?" Chúa đáp: "Đúng như con nói".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Đoạn Phúc Âm hôm nay cho ta thấy tấm lòng của Chúa Giêsu trước việc Giuđa phản bội:
Ngài đau buồn: “Kẻ giơ tay cùng chấm đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy”. “Cùng chấm đĩa” đó là hình ảnh của người rất thân trong gia đình. Thực ra không phải một mình Giuđa cùng chấm đĩa, mà tất cả 12 môn đệ. Nhưng bị bán đứng bởi người thân là một điều rất đau lòng.
Ngài tiếc xót: “khốn cho kẻ nộp Con Người, thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn”. Các nhà chú giải bảo đừng dựa vào câu này để nói Chúa Giêsu nguyền rủa Giuđa. Thực ra Ngài đang nói theo giọng điệu của những bài ai ca. Chúa Giêsu than tiếc vì môn đệ mình đã đi vào con đường tội lỗi.
Ngài vẫn tôn trọng: vừa trả lời thẳng cho Giuđa biết hắn là kẻ phản bội, vừa kín đáo không nói lớn kẻo người khác biết lòng dạ hắn.
B- Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Ta hãy suy gẫm về con đường của Giuđa: Hắn được Chúa yêu thương gọi làm môn đệ, chọn làm tông đồ; hắn còn được Chúa tín nhiệm giao giữ tiền; nhưng đồng tiền đã dần dần khống chế hắn (Xem bài Phúc Âm ngày thứ hai: “Y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những thứ người ta bỏ vào quỹ chung” – Ga 12,6); Chúa Giêsu đã nhiều lần tế nhị đánh thức lương tâm hắn, nhưng hắn cũng không hồi tâm. Cuối cùng hắn đã đi ra lao mình vào bóng đêm.
Không ai phạm tội trọng trong một sớm một chiều. Phạm tội là cả một quá trình từ nhẹ tới nặng, do để mình bị khống chế bởi những giá trị trên thế gian, do bưng tai bịt mắt trước những tiếng nhắc nhở âm thầm của Chúa.
2. Tự do là một món quà vô cùng quý giá Chúa ban cho, nhưng đồng thời cũng là một trách nhiệm nặng nề và là một con dao hai lưỡi nguy hiểm. Xin giúp con biết sử dụng tự do.
3. Chúa rất thương Giuđa và Chúa cũng toàn năng, nhưng Chúa không thể ngăn cản Giuđa phạm tội. Bởi thế, nếu tôi chỉ cầu nguyện “Xin Chúa gìn giữ con khỏi phạm tội” thì chưa đủ. Thánh Augustinô, người được mệnh danh là “Tiến sỹ dạy về ơn sủng” đã viết “Khi tạo dựng con, Chúa không cần hỏi ý con. Khi muốn thánh hóa con, Chúa cần con góp sức của con”.
4. Một thanh niên kia có thói quen ngủ rất say, luôn cần có mẹ gọi mới thức dậy được. Sau khi tốt nghiệp, anh đi làm ở một chỗ xa nhà. Mẹ anh mua cho anh một chiếc đồng hồ báo thức. Ngày đầu tiên, anh quên vặn chiếc đồng hồ trước khi đi ngủ nên đến sở làm trễ. Ngày thứ hai, anh nhớ vặn đồng hồ, nhưng sáng sớm khi nó reo thì anh đưa tay tắt bỏ, nên lại đi làm trễ. Và anh bị đuổi việc. Khi anh trở về gia đình, mẹ anh hỏi về chiếc đồng hồ. Anh đáp:
- Chiếc đồng hồ đó hoàn toàn vô dụng đối với con.
- Nó vô dụng là tại vì con không chịu dùng nó. Mẹ anh đáp.
Bao nhiêu ơn Chúa ban cho ta cũng đều vô dụng nếu ta không sử dụng đến. (Góp nhặt)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin thờ Chúa đang ngự trong tâm hồn chúng con. Chúng con cảm tạ vì tình thương mà Chúa đã dành cho chúng con. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa bổ dưỡng và thêm sức mạnh cho chúng con trên hành trình hoàn thiện ơn gọi làm con Chúa nơi mỗi người chúng con.
Lạy Chúa, có lẽ Chúa rất buồn khi Giuđa nhận tấm bánh từ tay Chúa mà vẫn đang tâm bội phản cùng Chúa. Và có lẽ hôm nay Chúa cũng rất buồn khi chúng con rước Chúa, mà lòng vẫn còn ngổn ngang trăm chiều những tính toán nhỏ nhen, ích kỷ tầm thường. Chúa cũng rất buồn khi chúng con để những đam mê lầm lạc ràng buộc mọi ý chí tốt lành của chúng con.
Xin cho chúng con biết sống trọn vẹn trách nhiệm làm người của mình. Trách nhiệm phải sống như một con người biết sống đúng với phẩm giá con người. Trách nhiệm phải sống như là hình ảnh của Thiên Chúa không để những đam mê bất chính làm hoen mờ đi. Trách nhiệm phải trở nên gương sáng cho tha nhân qua đời sống chứng nhân cho Phúc Âm của Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con ơn hoán cải để chúng biết làm lại cuộc đời. Xin cho chúng con biết sống một cuộc đời đầy yêu thương, thánh thiện như hình ảnh ban đầu mà Chúa đã tạo dựng. Amen.

Thứ Hai, 14 tháng 4, 2014

Sa ngã

Khi ấy, (Chúa Giêsu đang ngồi ăn với các môn đệ), tâm hồn Người bị xao xuyến, nên Người tuyên bố: "Thật, Thầy nói thật cho các con biết, một người trong các con sẽ nộp Thầy". Các môn đệ nhìn nhau phân vân không biết Người nói về ai. Có một môn đệ được Chúa Giêsu yêu quý, đang ở bàn ăn gần lòng Chúa Giêsu. Vậy Phêrô làm hiệu cho môn đệ ấy và nói: "Hỏi xem Thầy nói về ai đó". Môn đệ ấy nghiêng mình sát ngực Chúa Giêsu và hỏi Người: "Thưa Thầy, ai vậy?" Chúa Giêsu trả lời: "Thầy chấm miếng bánh trao cho ai là người đó". Và Người chấm một miếng bánh trao cho Giuđa, con Simon Iscariô. Ăn miếng bánh rồi, Satan nhập vào hắn. Chúa Giêsu nói với hắn: "Con tính làm gì thì làm mau đi". Nhưng những người đang ngồi ăn không một ai hiểu được vì sao Người lại nói với hắn như vậy. Có nhiều người tưởng tại Giuđa giữ túi tiền, nên Chúa Giêsu bảo hắn: Hãy mua những gì chúng ta cần dùng trong dịp lễ, hoặc Người bảo hắn bố thí cho người nghèo. Vậy sau khi nhận miếng bánh đó, Giuđa liền đi ra. Bấy giờ là đêm tối. Khi Giuđa đi rồi, Chúa Giêsu phán: "Bây giờ Con Người được vinh hiển, và Thiên Chúa đã được vinh hiển nơi Người. Nếu Thiên Chúa được vinh hiển nơi Người, thì Thiên Chúa lại cho Người được vinh hiển nơi chính Mình, và Thiên Chúa sẽ cho Người được vinh hiển! Các con yêu quý, Thầy chỉ còn ở với các con một ít nữa. Các con sẽ tìm Thầy, và như Thầy đã nói với người Do Thái: 'Nơi Ta đi, các ngươi không thể đến được', nay Thầy cũng nói với các con như vậy". Simon Phêrô hỏi Người: "Thưa Thầy, Thầy đi đâu?" Chúa Giêsu trả lời: "Nơi Thầy đi, nay con chưa thể theo tới đó được, nhưng sau này con sẽ theo Thầy".
Phêrô thưa lại: "Tại sao con lại không theo Thầy ngay bây giờ được! Con sẽ liều mạng sống con vì Thầy". Chúa Giêsu nói: "Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thật, Thầy nói thật cho con biết: trước khi gà gáy, con đã chối Thầy ba lần".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Bài trích Phúc Âm hôm nay là một phần của bữa tiệc ly. Có 3 chi tiết đáng chú ý:
1. Chúa Giêsu cố gắng đánh thức lương tâm của Giuđa: Ngài nói rằng Ngài đã biết kẻ đang mưu phản Ngài, Giuđa nghe nhưng không xao xuyến, Ngài thân ái chấm miếng bánh trao cho hắn, hắn nhận lấy một cách dửng dưng; Ngài bảo hắn muốn làm gì thì hãy làm đi, hắn dựa vào câu nói đó để ra đi thực hiện âm mưu đen tối của mình.
2. Giây phút Giuđa đi ra là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thực hiện ý muốn của Chúa Cha.
3. Chúa Giêsu báo trước việc Phêrô chối Thầy. Phêrô nói rất hăng: “Con liều mạng sống con vì Thầy”. Nhưng lời nói của ông không đi đôi với việc làm “Con liều mạng sống vì Thầy ư? Thầy nói thật cho con biết trước: Trước khi gà gáy, con đã chối Thầy 3 lần”.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Không phải Chúa Giêsu muốn Giuđa phạm tội, cũng không phải Ngài thờ ơ bỏ mặc hắn chìm trong tội lỗi. Ngài đã nhiều lần nhiều cách đánh thức lương tâm hắn. Ngài chỉ làm được đến thế thôi, vì Ngài phải tôn trọng tự do của hắn. Cách Chúa đối xử với những người tội lỗi cũng như thế.
2. Người da đỏ giải thích lương tâm như sau: Đó là một khối 3 góc ở trong tim ta. Khi ta làm tốt thì nó nằm yên. Khi ta làm xấu, thì nó quay ra và đâm các góc nhọn vào ta. Nếu ta cứ làm xấu, các góc nhọn của nó mòn dần và không làm ta cảm thấy gì nữa cả. (Weapons and Workers).
3. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thi hành ý muốn của Chúa Cha. Do tình yêu, người ta cũng lấy làm vinh dự được chiều ý người mình yêu. Thánh Phaolô nói “Vinh dự của chúng ta là Thánh Giá Đức Kitô”. Các tông đồ sau khi bị bắt nhốt vào trong tù và bị đánh đòn, đã “hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì Danh Chúa Giêsu” (Cv 5,41). Nếu ta không lấy làm vinh dự khi làm theo ý Chúa và chịu khổ vì Chúa, đó là dấu ta chưa yêu Chúa.
4. Cũng như Phêrô, tôi rất dễ nói những lời hăng hái bày tỏ lòng yêu mến Chúa. Thí dụ lúc cầu nguyện, trong những cuộc tĩnh tâm… Nhưng thực tế là tôi đã chối Chúa không chỉ 3 lần.

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, mùa Chay với những ngày tĩnh tâm là một chặng dừng cần thiết, là cuộc hành trình nội tâm của mỗi người chúng con. Cuộc hành trình của con sâu gỡ mình ra khỏi tổ kén để trở thành cánh bướm. Một cuộc đổi đời toàn bộ để thoát ra khỏi bóng tối của tội lỗi, khỏi mọi ràng buộc của đam mê bất chính, để thay hình đổi dạng nên mới và tốt đẹp hơn. Xin cho chúng con biết cúi mình xuống trong chân thành, khiêm hạ để có thể mở rộng tâm hồn đón nhận ân sủng Chúa ban. Vì biết rằng Chúa vẫn luôn mở ra cho chúng con một con đường mới. Vẫn tin tưởng, yêu thương vẫn còn mãi bận lòng với mỗi người chúng con. Vì bao lâu chúng con đang sống trong bóng tối của phản loạn, của mưu mô phản bội là bấy lâu Chúa vẫn mòn mỏi tìm kiếm chúng con quay trở về với Chúa. Bởi vì dù sao đi nữa, Chúa không bao giờ thất vọng về chúng con. Chúa không bao giờ thay đổi tình yêu của Chúa đã dành cho chúng con. Như năm xưa Chúa đã mở cho Giuđa con đường trở về, thế nhưng vì cứng lòng, vì thiếu niềm tin vào sự tha thứ của Chúa. Giuđa đã tuyệt vọng, đã chết trong cô đơn và thất vọng.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống cuộc đời như chúng con. Chúa đã thấy mọi khó khăn, nhọc nhằn của kiếp người. Chúa cũng biết rằng với thân phận con người, vốn dĩ mỏng dòn yếu đuối và gây ra bao nhiêu tội ác đối với anh em đồng loại. Chúa dạy chúng con phải biết yêu thương, kiến tạo hoà thuận và bình an, nhưng chúng con đã không thể sống như thế, vì mỗi người chúng con còn cố chấp, còn đong đầy mối hiềm thù ghen ghét. Xin nhờ sức mạnh từ Thánh Thể Chúa mà chúng con lãnh nhận hằng ngày ban cho chúng con biết sống một cuộc đời như Chúa. Amen.