Sợi chỉ đỏ:
Việc Thiên Chúa kết giao ước với tổ phụ Abraham (Bài đọc I)
là nền tảng của sự biến đổi thân phận loài người: Vì loài người phàm
hèn mà được vinh dự kết giao ước với Thiên Chúa; Việc biến đổi được
thực hiện một cách mẫu mực nơi Chúa Giêsu (Bài Phúc Âm): nhân tính của Ngài lu mờ đi để thiên tính hiển lộ; Thánh Phaolô (Bài đọc II) hứa hẹn với các tín hữu rằng "Đức Kitô sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người"
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Chắc hẳn nhiều lần chúng ta phải thất vọng vì con người của mình sao
mà tồi tệ xấu xa quá. Nhiều lần chúng ta cố gắng sửa đổi bản thân cho
tốt hơn. Nhưng cũng nhiều lần chúng ta thất bại.
Bài trích Phúc Âm hôm nay tường thuật việc Chúa Giêsu biến hình ra
vinh quang; Thánh Phaolô hứa chúng ta cũng sẽ được biến đổi như thế nhờ
quyền năng Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu và xin Ngài biến đổi chúng ta.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Chúng ta đã được dựng nên giống hình ảnh Chúa, nhưng do tội lỗi, càng ngày chúng ta càng khác xa Ngài.
- Sở dĩ chúng ta ngày càng khác xa Chúa là vì chúng ta hay dung dưỡng
con người xác thịt mà không bồi dưỡng con người thần linh trong chúng
ta.
- Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng. Chúng ta gần gũi tội lỗi nhiều hơn là gần gũi với ơn Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (St 15,5-12.17-18)
Các bài đọc Cựu Ước từ Chúa nhật II Mùa Chay trở đi tuần tự nhắc lại
những chặng đường quan trọng của Lịch sử Cứu rỗi. Hôm nay, đoạn sách
Sáng thế đề cập đến chặng đầu tiên: Thiên Chúa kết giao ước với Abraham.
Nhân loại cũ do nguyên tổ Ađam kể như đã hư mất vì tội lỗi. Thiên Chúa
quyết định thành lập một nhân loại mới bắt đầu từ Abraham. Nếu Abraham
chọn Thiên Chúa là Chúa của mình và tin vào Ngài, thì Thiên Chúa sẽ là
Đấng bảo vệ ông, Ngài sẽ làm cho có một dòng dõi đông đức, là dân
riêng của Ngài.
Giao ước được ký kết theo nghi thức thời xưa: Một số con vật được xẻ
đôi đặt ở hai bên; những người kết ước đi giữa những con vật xẻ đôi ấy,
ngụ ý rằng nếu không tuân giữ giao ước thì cũng sẽ bị chết phanh thây
như những con vật ấy. Trong bài tường thuật này, chỉ có Thiên Chúa (được tượng trưng bởi lửa và khói) đi qua những con vật ấy, Abraham không đi qua, bởi vì đây là giao ước đơn phương: chỉ mình Thiên Chúa cam kết thôi.
Hình ảnh những mãnh cầm tượng trưng cho những thế lục thù địch. Chúng
xà xuống trên những con vật để phá việc ký kết giao ước ấy. Nhưng
Abraham đã xua đuổi được chúng.
2. Đáp ca (Tv 26)
Thánh vịnh 26 được phụng vụ chọn đọc tiếp theo bài đọc I vì nó diễn
tả đúng tâm tình của Abraham: quyết chọn Chúa là chỗ nương tựa của mình
và tuyệt đối tin tưởng nơi Ngài.
3. Phúc Âm (Lc 9,28-36)
Chúng ta nên để ý tới bối cảnh của việc Chúa Giêsu biến hình:
1. Ngài biến đổi hình dạng ra vinh quang sáng láng đang lúc cầu nguyện.
2. Có một số chi tiết cho thấy cuộc biến hình này có liên quan tới việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại:
- Việc biến hình xảy ra "khoảng 8 ngày sau", tức là sau việc Ngài báo tin chịu nạn lần thứ nhất (xem Lc 9,22)
- Hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Ngài "về cuộc xuất hành Ngài sắp hoàn thành tại Giêrusalem.
- Tiếng Chúa Cha từ trời phán "Đây là Con Ta, người Ta tuyển chọn" là
trích những đoạn Cựu Ước nói về Người Tôi Tớ của Đức Chúa chịu khổ để
chuộc tội cho loài người.
Như thế Chúa Giêsu hôm nay biến hình để cho 3 môn đệ thân tín thấy
trước một chút vinh quang thật của Ngài, nhờ đó các ông sẽ đỡ hoang mang
khi sau này thấy Ngài chịu nạn chịu chết.
4. Bài đọc II (Pl 3,17--4,1) (chủ đề phụ)
Mở đầu trích đoạn này, Phaolô kêu gọi tín hữu Philipphê hãy noi gương
bắt chước Ngài. Sở dĩ Phaolô dám kêu gọi như thế vì Phaolô cũng đã bắt
chước tổ phụ Abraham, đặt trọn niềm tin tưởng cậy trông nơi Thiên
Chúa.
Phaolô còn khuyến khích rằng nếu chúng ta đặt trọn niềm tin tưởng cậy
trông nơi Thiên Chúa thì Ngài sẽ dùng quyền năng của Ngài mà chế ngự
tất cả những yếu đuối của thân phận con người và biến đổi chúng ta thành
vinh hiển như Ngài.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Ơn gọi và Biến hình
Ơn gọi của Abraham là bỏ xứ Ur thuộc Mesopotamie tiến vào Canaan.
Người không đức tin sẽ cho Abraham là kẻ lắm tham vọng và tin hão huyền:
bỏ cái đang có, đi tìm cái viển vông. Abraham bỏ ruộng vườn, nhà cửa
theo ơn gọi, tìm sự vất vả, sống thiếu thốn và khó khăn. Ông lùa đàn vật
và dẫn gia nhân vào chốn vô định. Trước mặt ông là bãi sa mạc mênh
mông, nắng cháy da diết, cỏ cây úa vàng, giọt nước quí hơn kim cương. Vì
tín trung với ơn gọi, Abraham đã thành công, trở thành anh hùng lập
quốc, được chúc phúc và biến hình.
Ơn gọi của Phaolô là quên đi dĩ vãng, diệt cái kiêu căng và cuồng tín
Biệt Phái. Từ thái cực là một kẻ hung hăng bắt đạo, Phaolô đã mềm nhũn
và ngoan hiền dưới ánh sáng kỳ diệu với lời trách nhẹ nhàng: "Saulê, sao người bắt bớ Ta?".
Phaolô làm bạn với nhóm 12 và trở thành Tông Đồ Dân Ngoại. Phaolô vui
nhận thử thách, không ngừng thuyết giảng, và trung thành đến giọt máu
cuối cùng. Phaolô đã được lột xác và biến hình.
Lịch sử Giáo hội ghi nhận nhiều cuộc biến hình khác. Từ say rượu đến
say Chúa; từ gái giang hồ thành thánh nhân; từ trai tứ chiếng nên đấng
lập dòng; từ kẻ khô khan đến người sốt mến; từ người tham lam, hà khắc
trở thành kẻ rộng lượng và khoan nhân... Đó là những cuộc canh tân và
biến hình đã, đang và còn tiếp tục xảy ra trong Giáo hội. Đồng thời
chứng minh rằng ơn Chúa dư đủ cho mọi người và Chúa đang thắng ma quỉ,
xác thịt và thế gian nơi cung lòng mỗi cá nhân.
Phúc Âm hôm nay hé lộ một chút vinh quang và sự cả sáng của Cứu Chúa
khi Ngài đàm đạo với hai nhân vật lịch sử nổi tiếng và kính yêu là Elia
và Môisen. Tại thế, vì sứ mệnh Cứu rỗi, Chúa Giêsu che giấu tất cả uy
quyền và dũng lực của Ngôi Lời, để sống đời hèn mọn, bất lực và tầm
thường của một thế nhân. Ngài cần ăn uống, nghỉ ngơi. Ngài phải đau
buồn, bị chê bai và chỉ trích. Ngài lo lắng, và bồn chồn về cuộc thảm tử
sắp đến. Nhưng điều khác biệt là Ngài vui đón ý Chúa Cha. Bởi vậy, một
lần nữa, Chúa Cha đã khen thưởng "Đây là Con Ta Dấu Yêu, hãy nghe lời Ngài".
Trong phút giây ngút ngàn thân thương ấy, Ngài bước ra khỏi cuộc đời
lam lũ và ô trọc để vui hưởng phút vinh quang ngây ngất và tuyệt vời của
Ngôi Hai Thiên Chúa.
Không phải chỉ có Abraham, Môisen, Êlia, Tông đồ mới có ơn gọi và được biến hình. Trái lại, ơn gọi phổ quát "Hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời" đã được trao tặng và mời gọi mỗi cá nhân. Thực thi ơn gọi ấy một cách hoàn hảo và trọn vẹn thì chúng ta ắt sẽ được biến hình.
Giám mục John Quinn trong lễ Thêm sức cho 50 em tại Sacramento năm
1983 đã mô tả ơn gọi và sứ mạng của người Việt Nam tại Mỹ như sau: "Cha
rất hài lòng khi thấy các con họp nhau tôn thờ và ca tụng Chúa bằng
tiếng mẹ đẻ. Các con hãy duy trì nền văn hóa và truyền thống cổ truyền,
đừng để nó mai một đi. Cha vui mừng vì hình thức đạo đức bên ngoài biểu
lộ đức tin anh hùng và sâu xa chúng con thừa hưởng do công quả của các
Đấng tử đạo Việt Nam. Cha cảm động vì sự hiện diện của chúng con ở đây
nên ánh sáng và muối đất cho những người khác".
Tin đạo, thực hành đạo là ơn gọi của chúng ta. Sống đạo và mang đạo
vào đời là phương thế trong lành, thánh thiện và vĩ đại chúng ta phải
thực hiện để "danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến và ý Cha thể hiện".
Đừng để phú quý tạo tâm kiêu và bất cần Chúa. Đừng để ghen tương đốt
cháy và tiêu hủy thiện chí. Đừng để tị hiềm gây bất mãn, đố kỵ và tranh
chấp. Đừng để ích kỷ hủy hoại tình đồng hương và khóa cửa lòng. Hãy
nhận diện ra ai là đồng chí để cùng nắm tay, dìu nhau bước tới và biến
hình và ai là kẻ thù đang khai trừ và bắt bớ Đức Kitô trong Giáo hội để
cẩn trọng, đề phòng và cảm hóa. Và nhất là hãy can đảm cùng Chúa Kitô
"vạn lý trường chinh" trong âm thầm, chịu đựng. tự hủy, hy sinh, khiêm
tốn, tin tưởng và phó thác. Chúng ta không bao giờ lầm đường khi bước
trên những dấu chân của Đức Kitô. Đó là con đường biến hình duy nhất
của ông bà, anh chị và của tôi. (Lm Nguyễn Bình An, Nguyệt san "Dân
Chúa Mỹ Châu")
2. Hai ngọn núi
Hãy so sánh cảnh hôm nay với cảnh trên núi Cây Dầu:
- cùng xảy ra trên một ngọn núi: núi biến hình (Tabor?) và núi Cây Dầu.
- ở 2 nơi Chúa Giêsu đều biến hình: ở núi biến hình, Chúa Giêsu từ
hình dáng loài người biến thành hình dáng Thiên Chúa; ở núi Cây dầu, từ
hình dáng Thiên Chúa biến ra hình dáng con người yếu đuối.
- Cả 2 sự biến hình đều diễn ra trước 3 nhân chứng: Phêrô, Giacôbê
và Gioan. Và 2 điểm phụ: 2 lần ấy, họ đều ngủ, còn Chúa Giêsu đều thức
và cầu nguyện.
Nhưng 2 cuộc biến hình này bổ túc ý nghĩa cho nhau: Trên núi biến
hình, các môn đệ thấy được thiên tính của Chúa Giêsu vinh quang hơn bao
giờ hết, khiến họ ngất ngây sung sướng, muốn ở mãi trong tâm trạng ngất
ngây đó; Trên núi Cây dầu, họ thấy Thầy trong nhân tính yếu đuối hơn
bao giờ hết. Con người thật của Chúa Giêsu vừa có thiên tính vừa có
nhân tính. 2 biến cố bổ túc nhau giúp ta hiểu được con người thật của
Ngài.
Suy gẫm 2 biến cố này, ta cũng thấy được con người thật của ta:
trong ta có một phần là Adam con của xác thịt, một phần là Con của Chúa.
- Cũng như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình, có nhiều lúc chúng ta
cảm thấy ngất ngây sung sướng; thấy mình sốt sắng quá, gần Chúa qua,
yêu thương anh chị em quá, sẵn sàng làm những điều tốt cho anh chị em,
sẵn sàng tha thứ cho kẻ làm hại mình...
- Nhưng cũng như Chúa Giêsu trên núi Cây dầu, lại có những lúc chúng
ta suy sụp trầm trọng; phần Adam nổi lên lấn áp phần Con của Chúa. Khi
đó ta thấy đời thật buồn nản, thấy không ai thương mình, không ai hiểu
mình, Chúa hình như cũng xa mình... Từ đó ta nguội lạnh với Chúa, ích
kỷ với anh chị em, khe khắt với những kẻ làm khổ mình.
+ Nhưng có một điều rất quan trọng ta hãy nhớ: Chúa Giêsu luôn cầu
nguyện khi biến hình vinh quang trên núi biến hình cũng như khi biến
hình thảm não trên núi Cây dầu. Cầu nguyện giúp thống nhất con người
chúng ta đúng theo kế hoạnh Thiên Chúa. Đặc biệt nhớ cầu nguyện trong
lúc suy sụp.
+ Và nếu ta biết cầu nguyện để thống nhất hóa con người mình như thế
thì ta sẽ cũng như Chúa Giêsu được Chúa Cha âu yếm nói "Đây là con yêu
dấu của Ta" (trên núi biến hình), và được thiên thần Chúa an ủi (trên
núi Cây Dầu).
"Lạy Chúa
Xin cho con được nếm những giây phút ngất ngây như Chúa Giêsu xưa trên núi biến hình.
Trong
những giây phút đó, xin cho con biết làm như Chúa Giêsu xưa: con sẽ
hướng về Chúa để cầu nguyện và con sẽ được nghe lời Chúa nói: Con là con
yêu dấu của Cha.
Và lạy Chúa
Khi con gặp những lúc suy sụp, xin cũng cho con
biết làm như Chúa Giêsu xưa: Con cũng hướng về Chúa để cầu nguyện. Và
khi đó con cũng được bàn tay Chúa an ủi, nâng đỡ và xoa dịu con." (Viết theo Mark Link, Sunday homilies)
3. Nét mặt con người
Nét mặt con người rất quan trọng. Nhớ ai là nhớ mặt người đó. Khi ta
không nhớ mặt người nào thì kể như người đó đã trở thành một chiếc
bóng.
Những sắc thái của nét mặt diễn tả được rất nhiều điều đến độ đáng
ngạc nhiên, bởi đó nét mặt là đối tượng nghiên cứu rất thú vị. Nét mặt
luôn biểu lộ cho biết ta là ai và cuộc sống của ta như thế nào. Điều này
giải thích lý do người ta hay dùng tiếng "mặt" để nói về người khác.
Chẳng hạn: "Từ lâu rồi tôi không thấy mặt nó". Nhìn nét mặt một người,
ta có thể đoán được cảm giác bên trong của người ấy: họ đang vui hay
buồn, hay thờ ơ…
Chúng ta cũng thường nói "mất mặt". Trong trường hợp này, ‘mặt" chính
là danh dự của con người. Khi ta nói người nào đó có "hai mặt" thì có
nghĩa đó là một con người dối trá…
Mỗi người chúng ta có nhiều nét mặt, được biểu lộ trong nhiều tình
huống khác nhau: khi thì hạnh phúc, khi thì buồn rầu, khi thì bạo dạn,
khi thì nhút nhát, khi thì bình thản, khi thì sợ sệt, khi thì đau đớn,
khi thì vui mừng, khi thì thân thiện, khi thì giận dữ… Điều này chẳng có
gì đáng xấu hổ cả, vì đó là một phần của thân phận làm người của chúng
ta. Điều duy nhất đáng xấu hổ là nét mặt giả tạo, vì tất cả những nét
mặt được kể trước đó đều nói lên sự thật, còn nét mặt giả tạo nói lên
sự dối trá.
Tại sao người ta ngại cho kẻ khác thấy mét mặt thật của mình? Tại sao
người ta hay mang mặt nạ? Phải chăng vì người ta sợ người khác biết sự
thật yếu kém của mình? Có lẽ chính vì thế mà nhiều khi người ta cố làm
một nét mặt tươi cười đang khi trong lòng thì muốn khóc.
Bài Phúc Âm hôm nay nói khi Chúa Giêsu ở trên núi thì mặt Ngài trở
nên sáng chói như mặt trời. Thật lầm khi nghĩ rằng đó chính là nét mặt thật
của Chúa. Thực ra, điều mà các môn đệ đã thấy là thật, nó tỏ lộ vinh
quang bên trong của Ngài, sự vinh quang mà thường khi Ngài che dấu.
Nhưng nói rằng nét mặt vinh quang trên núi hôm ấy là nét mặt thật thì
khiến người ta tưởng rằng những nét mặt khác là không thật, là giả.
Nét mặt mà Chúa Giêsu tỏ lộ trên núi là một nét mặt đặc biệt nhưng
không phải là nét mặt duy nhất của Ngài. Ngài có tất cả những nét mặt
như chúng ta ta có, chỉ trừ những nét mặt giả tạo. Chúng ta đã thấy có
khi Ngài mệt, có khi Ngài giận, có khi Ngài buồn, có khi Ngài vui, có
khi Ngài trìu mến, có khi Ngài cảm thông… Tất cả những nét mặt ấy đều
thật, vì đàng sau những nét mặt ấy là bản chất thật của Ngài: vừa là
người hoàn toàn giống chúng ta (chỉ trừ tội lỗi), vừa là Thiên Chúa vinh
quang, như tiếng từ trời phán "Đây là Con yêu quý của Ta".
Mặc dù người ta nói nét mặt là cửa sổ của tâm hồn, nhưng mỗi nét mặt
che dấu nhiều hơn là biểu lộ. Điều cốt lõi của con người vẫn còn vô
hình không thấy được. Mỗi người là một huyền nhiệm.
Cũng như Abraham, chúng ta phải sống bằng đức tin. Đức tin dạy rằng
đàng sau những nét mặt bình thường của một người là thân phận của một
người con của Chúa, một người anh chị em của Chúa Giêsu, hướng tới một
vinh quang đời đời. (FM)
4. Một thoáng vinh quang
Trên núi Tabor, ánh vinh quang của Thiên Chúa đã tỏa chiếu từ thân
xác Chúa Giêsu, và Ngài được biến hình. Các môn đệ đã ngây ngất trước vẻ
đẹp và sự sáng ngời ấy. Đó không phải chỉ là vẻ bề ngoài, mà là vinh
quang thật từ bên trong thoáng tỏ lộ ra. Nói tắt một lời: Đó là chính
Thiên Chúa ở trong Chúa Giêsu.
Chúng ta cũng có vinh quang thần linh ở trong chúng ta, bởi vì chúng
ta đã được dựng nên theo hình ảnh Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta cũng có
những thoáng biến hình. Van Gogh nói: "Một người tiều phu hay một người
thợ mỏ nghèo nhất cũng có thể có những thoáng cảm hứng khiến anh ta
cảm thấy gần như đang ở thiên đàng".
Một người nghèo sống trong khu nhà dành cho những kẻ vô gia cư đã kể
câu chuyện sau đây. Một hôm ông đi dạo trên phố và tình cờ vào một ngôi
nhà thờ lúc nào không hay. Ông không nhớ là lúc đó ông có cầu nguyện
không, nhưng ông nhớ là cảm thấy tâm hồn mình chìm ngập trong ánh sáng.
Mọi buồn chán đều tan biến hết, chỉ có bình an. Ông cảm thấy mình rất
gần Chúa và được Chúa yêu thương. Cảm nghiệm này rất sâu đậm mặc dù chỉ
thoáng qua trong phút chốc. Ông nói rằng ông sẵn sàng đánh đổi cả đời
để có được một thoáng cảm nghiệm ấy. Khi ông rời nhà thờ, cảm nghiệm ấy
tan loãng dần. Về sau, ông trở lại nhà thờ nhiều lần để mong có lại
cảm nghiệm tuyệt vời ấy, nhưng không được.
Điều sai lầm của người vô gia cư trên là muốn bám cứng
vào một cảm nghiệm thoáng qua. Nói cách khác, ông muốn đi lùi chứ
không đi tới. Nói rõ hơn nữa: lẽ ra ông phải biết dùng cái cảm nghiệm
thoáng qua ấy để soi sáng cuộc đời tăm tối của mình, và nhờ đó mà can
đảm tiến bước trong hy vọng.
Phêrô cũng sai lầm như thế. Ông muốn ở lại mãi trên núi. Ông muốn bám
cứng vào cảm nghiệm vinh quang hạnh phúc. Ông không muốn xuống núi
tiếp tục cuộc sống thường ngày. Nhưng Chúa Giêsu đã giục ông xuống núi
để đối diện với tương lai. Ngài không muốn cảm nghiệm trên núi ấy trở
thành chỗ cho Phêrô ẩn trốn khỏi cuộc chiến đấu đang đợi chờ phía
trước. Một thoáng ánh sáng Ngài ban cho ông là để giúp ông trực diện
với giờ tăm tối sắp đến.
Nghe lời Chúa, Phêrô đã xuống núi. Nhưng lạ thay, cảm nghiệm thoáng
qua hôm ấy vẫn còn sáng mãi trong lòng ông. Nhiều năm sau ông còn viết:
"Chúng ta đã được chứng kiến vinh quang của Ngài trên núi… Khi ấy có
tiếng phán từ trời rằng: Đây là Con yêu quý của Ta, Ta hài lòng về Ngài"
(1 Pr 1,17-18).
Chúng ta cũng những thoáng cảm nghiệm được ánh sáng và niềm vui.
Những thoáng cảm nghiệm ấy cho ta thấy được đất hứa mà chúng ta phải
tiến đến trong đức tin. Nhưng nên biết rằng Chúa ban những thoáng biến
hình ấy là để thêm sức cho chúng ta sống những nhiệm vụ hằng ngày.
Tín ngưỡng và sự cầu nguyện không phải là những chỗ ẩn trốn, mà là
những trợ lực giúp chúng ta đương đầu với gian lao thử thách. (FM)
5. Người vẫn đồng hành
Truyện ngụ ngôn kể về một nhà thiên văn có thói quen mỗi buổi tối lại
nhìn lên các ngôi sao, nghiên cứu các vì tinh tú đang xoay vần, chuyển
đổi trong vũ trụ bao la.
Một lần kia, đang đi dạo mát quanh vùng, mải mê suy nghĩ những chuyện
trên trời, ông ta vô ý ngã xuống giếng cạn. Tiếng kêu cứu thất thanh,
khiến một người đi ngang qua đó nghe được. Ông vội vàng chạy đến miệng
giếng, liền đoán được việc gì đã xay ra, bèn nói với nhà thiên văn: "Này ông, ông cứ muốn biết những việc xảy ra trên trời, còn những việc sờ sờ dưới đất sao ông không thấy?"
Đêm hôm ấy, Chúa Giêsu cùng với ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện.
Trong lúc Người thân mật cầu nguyện với Chúa Cha thì các ông lại mê
mệt trong giấc ngủ say. Nhưng khi tỉnh dậy, thấy Chúa Giêsu vinh quang
chói loà, cả hai ông Môsê và Êlia đàm đạo với Người cũng rạng ngời vinh
hiển, thì Phêrô mau mắn thưa: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, hay quá !" (Lc
9,33). Các ông thích ở chốn vinh quang sáng láng, nhưng lại không tỉnh
thức cầu nguyện. Các ông muốn cắm lều trên núi cao, nhưng lại chìm sâu
trong cơn ngủ mê. Sau này trong vườn Cây Dầu, cũng chính ba môn đệ này
vẫn còn mê ngủ, cho đến khi kẻ thù đến bắt mất Thầy. Đó là thân phận
yếu hèn của mỗi người chúng ta…
Chính vì biết các môn đệ yếu chuối mà Chúa Giêsu đã cho các ông được
chiêm ngắm vinh quang của Người, dù chỉ trong chốc lát, để củng cố niềm
tin của các ông trong cuộc khổ nạn mà Người sắp thực hiện tại
Giêrusalem. Đồng thời để các ông có bằng chứng loan báo về việc Người
phục sinh sau này.
Việc biến hình sáng láng hôm nay cũng là để chứng thực cho lời tuyên xưng của Phêrô ở Xêdarê cách đây tám ngày: "Thầy là đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống" (Mt 16,16).
Nếu cuộc biến hình vinh quang của Chúa Giêsu là sự đáp trả của Chúa
Cha qua việc Người chấp nhận cuộc khổ nạn, thì sự vâng theo ý Chúa hôm
nay, xem ra vất vả nặng nề, cũng sẽ trở nên nguồn vui bất diệt cho chúng
ta ngày mai.
Nếu đang khi cầu nguyện, dung mạo Người bỗng biển đổi, thì việc gặp
gỡ, kết hiệp với Chúa trong suy niệm và cầu nguyện sẽ biến đổi tâm hồn,
cuộc sống và cả con người chúng ta mỗi ngày để nên giống Chúa hơn.
Nếu sau cuộc biến hình, Chúa Giêsu trở lại với khuôn mặt bình thường,
Thầy trò lại tiếp tục cuộc sống thường nhật, thì sau những niềm vui
khôn tả Chúa ban trong cầu nguyện, chay tịnh và bác ái, Người vẫn tiếp
tục đồng hành với chúng ta trong mọi biến cố của cuộc sống.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã biến hình sáng láng trên núi Tabo và đã
hấp hối bi thảm trên núi Cây Dầu. Nhưng trong hai lần ấy, Chúa đều cầu
nguyện mật thiết với Chúa Cha. Xin cho chúng con biết cầu nguyện, lúc
hạnh phúc cũng như khi đau khổ, khi an vui cũng như lúc gặp thử thách,
để chúng con luôn kết hiệp với Chúa và để Chúa nâng đỡ chở che. Amen. (TP)
6. Chuyện minh họa
a/ Biến đổi
Một người bán gỗ cho xưởng mộc. Anh thường thủ lợi bằng cách đo gỗ
thiếu. Ngày kia, có tin đồn đến xưởng là anh ta nhập đạo. Nghe thấy thế,
mọi người bán tín bán nghi rồi bàn thảo mỗi người mỗi ý. Có một người
lặng lẽ ra kho gỗ, một lúc sau trở vào dõng dạc tuyên bố:
- Đúng, anh ta nhập đạo thật.
- Sao anh biết?
- Tôi vừa xem lại số gỗ anh ta chở tới hôm qua. Tôi thấy là đúng với qui cách ta đặt, không thiếu nữa.
Người nào tiếp nhận đức Kitô cũng phải thay đổi cuộc đời và sống ngay chính.
b/ Đổi tiền
Đến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của
mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất
chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Đó là ý
nghiã Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của
anh để mua Nước Trời.