Thứ Ba, 30 tháng 4, 2013

Tầm thường và phi thường

Khi ấy, Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: "Bởi đâu ông này khôn ngoan và tài giỏi như thế? Ông không phải là con bác thợ mộc ư? Mẹ ông không phải là bà Maria? và Giacôbê, Giuse, Simon và Giuđa không phải là anh em của ông sao? Và tất cả chị em của ông không phải ở nơi chúng ta đó sao? Vậy bởi đâu ông được mọi điều ấy như thế?" Và họ lấy làm gai chướng về Người. Nhưng Chúa Giêsu nói với họ: "Không có tiên tri nào được vinh dự nơi quê hương và nơi nhà mình". Và Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Sau một thời gian hoạt động ở những nơi khác, Chúa Giêsu trở về quê hương Nadarét và vào giảng dạy trong hội đường. “Sự khôn ngoan và quyền làm phép lạ” của Ngài đã khiến cho những người đồng hương phải ngạc nhiên. Nhưng sự ngạc nhiên này không dẫn họ đến đức tin, bởi còn một chướng ngại ngăn cản, đó là xuất thân của Ngài: vì người ta biết quá rõ cha mẹ anh em Ngài đều là những người nghèo hèn quê mùa cho nên người ta không tin Ngài là Messia. Do người ta không tin, nên Chúa Giêsu không làm nhiều phép lạ.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Những người Nadarét đã ngạc nhiên và thán phục Chúa Giêsu. Họ đã tiến đến gần tới đức tin. Nhưng rất tiếc, hành trình ấy đã bị chận lại vì thành kiến. Họ nghĩ: một con người có cha mẹ và anh em là những kẻ nghèo nàn và tầm thường như thế không thể nào là Đấng Messia được.
Có những thành kiến thật vô lý, thế nhưng người ta vẫn để cho những thành kiến vô lý ấy ảnh hưởng đến mình.
Phải chăng nhiều lần tôi cũng đánh giá người khác theo những thành kiến: Anh ấy, chị ấy không thể nào khá được! Con người như thế đó mà làm được cái gì!
2. Ngày xưa các phụ nữ quý phái Trung Hoa bó chân để chứng tỏ mình không phải lạo động. Thời đó, lao động là việc làm của những kẻ hèn hạ. Chúa Giêsu đã bỏ ra 30 trong số 33 năm ở trần thế để lao động; và việc Giáo Hội mừng kính Thánh Giuse Thợ là những lời nhắc nhở chúng ta tôn trọng giá trị của lao động, đặc biệt là lao động tay chân.
3. “Ông không phải là con bác thợ mộc ư?”: Trong số các thành kiến của chúng ta, có thứ thành kiến quái dị này là “cha nào con nấy”, cha mẹ dở thì con không thể giỏi, cha mẹ xấu thì con không thể tốt. Đành rằng, di truyền cũng có ảnh hưởng phần náo đó, nhưng không phải là tất cả. Có biết bao tấm gương về những đứa con tài giỏi thánh thiện xuất thân từ cha mẹ tầm thường và tội lỗi.
4. Một du khách mới đi Trung Hoa về báo cáo rằng giới trí thức Trung hoa tuyên bố: “Không, việc truyền giáo của quí vị không bám rễ vào đất nước chúng tôi được đâu, vì các nhà truyền giáo của quí vị mới đến chưa hiểu gì đã tuyên bố là đạo của chúng tôi là sai lạc.” Và một người Á Đông khác cũng nói: “Các ông muốn chúng tôi bỏ những gì mà chúng tôi tin và chấp nhận những gì mà các ông tin” Đi truyền giáo mà có định kiến thì thà ở nhà còn hơn. (Góp nhặt)
5. “Người không làm nhiều phép lạ tại đó, vì họ cứng lòng tin”: Phép lạ chỉ diễn ra vì lòng tin và với lòng tin của con người. “Nếu chúng con có đức tin chỉ bằng hạt cát, chúng con có thể bảo quả núi này dời xuống biển…”.
Xin ban thêm đức tin cho con.
6. “Chúa Giêsu trở về quê nhà, giảng dạy dân chúng trong hội đường, họ bỡ ngỡ và nói rằng: Ông không phải là con bác thợ mộc ư?” (Mt 13,54-55)
Nghe Chúa Giêsu giảng dạy, người ta giật mình kinh ngạc, vì cái chiều sâu thăm thẳm của cuộc sống đã được Chúa Giêsu cảm nhận cách sống động, tinh tế. Ngài như thưởng thức được nét tinh khiết của bông huệ ngoài đồng, nét lung linh của giọt sương. Ngài thán phục trước những cánh chim tự do trên bầu trời, cái ngọt ngào mượt mà của đồi nho, đồng lúa. Ngài nhìn thấy nét hùng mạnh trong lao tác của người đàn ông, cái âm thầm tế nhị, quảng đại nơi người nữ và ánh mắt trong sáng của trẻ thơ… Và trên hết là tâm tình ngợi ca Tình Yêu của con người trước Thiên Chúa.
Tôi hình dung ra bác thợ mộc Giuse với cưa, đục… trên vai, cùng bé Giêsu hồn nhiên tung tăng trên con đường làng…
Và trong xưởng thợ, ánh mắt âm thầm trìu mến của bác thợ dừng lại bên mái đầu vô tư của bé Giêsu, ở đó, họ cùng mở ra những trang Phúc Âm của cuộc sống.
Lạy Chúa, xin cho người trẻ chúng con biết mở rộng cõi lòng với thiên nhiên, biết quan tâm chăm sóc và góp phần trong công cuộc tạo dựng. Amen (Epphata)
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu, dân làng Nadarét đã không tin vào Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin vào Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người. Cũng có lúc con không tin có Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh nơi một linh mục yếu đuối trong một Hôi Thánh có nhiều bất toàn. Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin. Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn nhận ra Ngài tỏ mình thật bình thường trong cuộc sống.

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Bình an của Chúa

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng. Lòng các con đừng xao xuyến và đừng sợ hãi. Các con đã nghe Thầy nói với các con rằng: Thầy đi, rồi Thầy sẽ trở lại với các con. Nếu các con yêu mến Thầy, thì các con hãy vui mừng vì Thầy về với Cha, bởi lẽ Cha trọng hơn Thầy. Giờ đây Thầy nói với các con trước khi việc xảy ra, để khi việc xảy ra, thì các con tin. Thầy không còn nói nhiều với các con nữa, vì thủ lãnh thế gian đã đến. Nó không có quyền lực gì đối với Thầy. Nhưng để cho thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha, thì Thầy làm như Cha đã truyền dạy".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Những lời này Chúa Giêsu nói với các môn đệ trong hoàn cảnh Ngài sắp đi ra chịu nạn chịu chết. Trong lúc các ông đang hoang mang sợ hãi như thế mà Chúa Giêsu lại nói “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con”. Như thế, thứ bình an này hẳn là đặc biệt.
Thứ bình an này “không như thế gian ban tặng”.
Nó dựa trên căn bản là lòng yêu mến đối với Chúa, và niềm tin tưởng rằng Chúa đi rồi cũng sẽ trở lại.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Bình an của Chúa Giêsu mang đến không phải là thứ bình an mà thế gian ban tặng. Bình an của thế gian thường chỉ là đồng nghĩa với an phận, với trốn tránh, với thoả hiệp. Bình an của Chúa mang đến chỉ có thể có được bằng một giá đắt đỏ: Nó đòi hỏi sự chiến đấu, chấp nhận mất mát, có khi cả hy sinh mạng sống mình nữa. Bình an ấy chỉ có khi con người có thể thốt lên như Thánh Phaolô “lương tâm không trách cứ tôi điều gì” (1 Cr 4,4). (Mỗi ngày một niềm vui)
2. Còn gì quý hơn một cuộc sống mà tâm hồn luôn an bình thư thái. Bởi thế chúng ta có thể đề ra cho mình cả một chương trình sống mà mục tiêu là kiến tạo và gìn giữ bình an trong tâm hồn:
Làm tất cả những gì có thể mang lại bình an cho mình và cho anh chị em.
Tránh gây ra xung đột, va chạm.
Tìm cách hoá giải và hoà giải các mầm mống có thể gây bất an.
Nhất là tránh tội lỗi là thứ làm xáo trộn mình nhiều nhất.
3. Một lần được phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêsa trực diện với một kẻ hỏi cắc cớ: “Bà yêu thương người nghèo điều đó rất tốt. Nhưng còn biết bao nhiêu người giàu có của Vatican và Giáo hội thì sao?”
Mẹ nhìn thẳng vào người phỏng vấn và nói: “Thưa ông, ông không phải là người hạnh phúc. Có những điều đang sâu xé ông. Ông không có một chút bình an trong lòng”.
Lời đó làm ông xụ mặt, và Mẹ tiếp tục khiến ông thêm quặn đau: “Ông nên có niềm tin tưởng”.
- Làm thế nào tôi có được niềm tin?
- Ông nên cầu nguyện.
- Nhưng tôi không thể cầu nguyện.
- Tôi sẽ giúp ông. Nhưng phần ông, ông nên cho những người xung quanh nụ cười. Một nụ cười làm ông gần những người khác. Nó mang sự thật về Thiên Chúa vào cuộc sống của chúng ta. (Góp nhặt)
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa hằng ao ước ban cho chúng con ơn bình an. Ơn bình an là hệ quả của một đời sống công bình bác ái. Ơn bình an của “lương tâm không hề trách con điều gì”. Xin Chúa ban cho chúng con sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. Xin ban cho chúng con sự bình an của Chúa là kết quả của việc dám sống theo những đòi hỏi của tin mừng. Xin ban cho chúng con sự bình an của một tâm hồn luôn hướng về sự thiện, luôn ước ao sự lành, luôn sống thanh sạch và lòng ngay.
Nhưng Chúa ơi! Cuộc đời đâu mấy khi bình an. Sự dữ vẫn hoành hành. Tội ác vẫn gia tăng. Người làm việc thiện là thiểu số. Kẻ làm điều gian ác thì vô số. Chúng con xin phó dâng cuộc đời trong tay Chúa. Xin gìn giữ chúng con khỏi mọi sự dữ. Xin cho chúng con biết đẩy lùi sự dữ ra khỏi môi trường bằng chính đời sống đạo đức của chúng con. Xin đừng để chúng con sa vào những cám dỗ sự dữ làm mất đi vẻ đẹp của hình ảnh Chúa nơi tâm hồn chúng con. Xin cho các bạn trẻ nam nữ trên thế giới đừng để mình bị cùng hút vào trào lưu văn hoá đồi truỵ, nhưng bị tự chủ bản thân để sống xứng với nhân vị con người.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin Chúa hãy dùng chúng con như khí cụ bình an của Chúa. Xin giúp chúng con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm. Xin cho chúng con cũng trở nên dấu chỉ sự bình an cho thế giới hôm nay. Amen.

Thứ Bảy, 27 tháng 4, 2013

Như Thầy yêu thương

Suy niệm: 
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Yêu thương là dấu chỉ cho người ta nhận biết các môn đệ của Chúa. Vì thế có thể nói khuyết điểm lớn nhất của người tín hữu là không yêu thương.
Trong Thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại xem có những người nào mà chúng ta không muốn yêu thương. Hãy dâng những người ấy lên Chúa, và xin Chúa giúp chúng ta yêu thương họ.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Vì chúng con còn ghét một số người, xin Chúa tha tội chúng con.
- Vì chúng con vui mừng khi thấy những người chúng con ghét phải chịu đau khổ, xin Chúa tha tội chúng con.
- Vì chúng con không cố gắng hòa giải với những người va chạm với chúng con, xin Chúa tha tội chúng con.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Cv 14,21-27)
Mặc dù là những nhà truyền giáo, nhưng Phaolô và Barnaba không chỉ lo rao giảng Phúc Âm cho những nơi mới. Thỉnh thoảng hai vị làm một chuyến thăm mục vụ ở những giáo đoàn cũ. Việc này ngày nay được gọi là "tái truyền giáo".
Tái truyền giáo của hai vị gồm : (1) Củng cố tinh thần kitô hữu ; (2) Củng cố cơ cấu nhân sự ở những giáo đoàn ấy.
2. Phúc Âm (Ga 13,31-35)
Đoạn Phúc Âm này là một phần của bữa tiệc ly. Có 2 chi tiết đáng lưu ý :
1. Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thực hiện ý muốn Chúa Cha.
2. Trước lúc bước vào con đường thập giá, Chúa Giêsu trối lại cho các môn đệ điều răn mới của Ngài : "Chúng con hãy yêu thương nhau… Ở điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng con có lòng yêu thương nhau".
3. Bài đọc II (Kh 21,1-5)
Thị kiến về thành Giêrusalem mới :
- Thành này từ trời xuống
- Là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại
- Trong thành Giêrusalem mới này, sẽ không còn sự chết, tang tóc và khổ đau.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Yêu thương kiểu mới
Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện Thánh nữ Maria Goretti. Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp : Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia đình thì nghèo : Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối. Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đi vào. Alexandre lại một lần nữa đề nghị chuyện ân ái. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexandre ăn năn sửa mình, nên được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong chuyện ấy có hai thứ tình : tình của Alexsndre đối với Goretti là một thứ tình yêu thấp hèn, : còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Phúc Âm hôm nay, thì tình yêu của Alexandre là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Foretti là thứ tình yêu kiểu mới.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích. Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới.
Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới ?
Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét, : thương người vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi trong bộ Cựu Ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn : đó là đừng thù oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Phúc Âm này, Chúa Giêsu dạy một tình yêu thương cao hơn nữa : không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất.
Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu. Vậy Chúa đã yêu như thế nào ? Có vài chi tiết trong bài phúc âm giúp ta hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa :
Chi tiết thứ nhất là câu "Khi Giuđa đi rồi" : Giuđa đi để thực hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
Chi tiết thứ hai là câu "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy" : nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa.
Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của Alexandre là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexandre chỉ yêu thương theo sự thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti là yêu thương kiểu mới : yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexandre.
Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn " Thầy ban cho chúng con một giới răn mới".
Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao ? có một tác giả kia khi viết bài suy gẫm về bài phúc âm này, đã đề nghị một số việc như sau :
là làm hòa với những kẻ ghét mình
là cầu nguyện cho kẻ ghét mình
là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay.
2. Như thầy đã yêu
Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê, nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn người chết, người bị thương.
Trong các tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn cả sức chấn động của cơn động đất.
Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống : Đứa con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn toàn bất tỉnh.
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ :
- Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy ?
Chị đáp :
- Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay, đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa ?
- Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao ?
- Tôi không hề nghĩ đến cai chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cánh nào cho con tôi được sống.
*
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay : "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như "Bạn hữu thân tình".
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là "Yêu cho đến cùng", yêu cho đến chết và chết trên thập giá.
Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là yêu "Như Thầy đã yêu".
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta dám quên mình, "bắt chước" Thầy, cúi xuống trước anh em.
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng "mức độ" như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.
Như vậy, yêu "Như Thầy đã yêu" không phải là tình yêu vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng mình, vì mình mà thôi ; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là một dòng chảy không ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta, qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em khác.
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa, thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô : "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).
3. Yêu thương người ruột thịt
Khi đề cập đến giới luật yêu thương, người ta thường nói tới việc yêu thương những người tội lỗi, những người nghèo, những kẻ thù v.v. Thế nhưng có một hạng người cần yêu thương hơn mà na ta hay quên, đó là chính những người ruột thịt.
Có một người đã viết lên những lời cầu nguyện như thế này : "Chúa ơi, tình chị em con rộng rãi bao la như chiếc lá me, như cái bánh cam buổi chiều. Buồn quá Chúa ơi. Giờ này con mới thấy rõ bộ mặt thật não nề !" Lời cầu nguyện này cũng là một tâm sự, một nhận xét, một thú nhận thật là chua chát. Có những người theo lẽ tự nhiên thì rất dễ thương nhau, nhưng trong thực tế thì lại rất ghét nhau. Đó là những người ruột thịt sống chung với nhau hằng ngày !
Khi còn nhỏ, anh chị em ruộït thịt một nhà sống với ngay thật là thân thiết yêu thương : ăn chung, chơi chung, đi học chung, ngủ chung… Cuộc sống thật thoải mái, nhưng tới khi những anh chị em này đã lớn, mỗi người đã có nghề nghiệp riêng, tiền bạc riêng, quyền lợi riêng, gia đình riêng thì tình nghĩa lợt lạt dần, có khi còn thù ghét nhau nữa. Có một người kia thành thật nhìn nhận rằng : "Người mà tôi thù ghét nhất, đó là… chị tôi !". Đó là một thực tế, thực tế không phải chỉ đối với một vài người nào đó, mà có lẽ đối với rất nhiều người.
Người ta đã đưa ra nhiều lý do để giải thích cái thực tế phủ phàng đó, như tại tuổi hai người xung khắc nhau, như tại cha mẹ cư xử không đồng đều với con cái. v.v. Tuy nhiên, những lý do đó không đúng, có thể còn mê tín dị đoan nữa. Lý do thật của tình trạng anh chị em ruột thịt không thương nhau lại thù ghét nhau là : Ganh ghét và thụ động.
Thứ nhất : ganh ghét. Hai anh em trong Thánh Kinh đã thù ghét nhau là Cain và Abilê. Và lý do thì rõ ràng là ganh ghét : Cain đã ganh với Abilê vì cậu em này chăm chỉ hơn mình nên làm ăn thành công hơn, hiếu thảo hơn mình nên được lòng cha mẹ hơn, đạo đức hơn mình nên được Chúa ban ơn nhiều hơn. Tình trạng bất hoà giữa nhiều anh chị em ruột thịt cũng cùng một lý do đó. Vì nó học giỏi hơn, vì nó đẹp hơn, vì nó có tiền hơn, vì nó được người ta thương mến hơn… khiến tôi bực bội khó chịu và từ đó hay kiếm chuyện gây gỗ. Ganh ghét là lý do chính. Tuy nhiên cần phải lưu ý đến khía cạnh tâm lý này : bởi vì chúng ta đều biết ganh ghét là một tính xấu cho nên ít ai chịu nhận mình có tính ganh ghét cả. Trong khi phân tích tình trạng bất hoà giữa anh chị em, ai ai cũng dễ dàng và mau mắn nhận rằng anh chị em đã ganh ghét mình, nhưng rất ít người chịu nhận mình ganh ghét anh chị em.
Lý do thứ hai là thụ động. Thụ động muốn nói đây không có nghĩa là mình không làm gì cả. Thực tế người ta rất tích cực và làm rất nhiều, nào là chê bai, nào là chửi bới, nào là nói xấu, nào là phá ngầm… Thụ động muốn nói đây là không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Nói khác đi, mình muốn hưởng mà không chịu làm. Sống chung trong nhà, mình chỉ lo cho mình chứ không lo cho ai cả rồi khi thấy anh chị em không giúp đỡ mình, không ủi an mình, không nâng đỡ mình thì mình tức tối bực bội và kiếm chuyện gây gỗ. Ở đây cũng có một nhận xét này chúng ta cần lưu ý : là người nào hay quên mình để lo lắng cho anh chị em thì người đó rất ít thắc mắc, ít đặt vấn đề. Ngược lại kẻ nào chỉ thụ động chờ anh chị em lo lắng phục vụ mình thì kẻ ấy lại thường khó chịu, cự nự, gây chuyện nhiều nhất.
Trên đây là hai lý do giải thích tình trạng anh chị em ruột thịt bất hoà với nhau : một là tính ganh ghét, hai là tính thụ động chỉ đòi người ta lo cho mình trong khi mình không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương. Thấy được hai lý do đó thì đương nhiên ta thấy được giải pháp của vấn đề. Làm thế nào để anh chị em ruột thịt thương yêu nhau ? Thưa ai cũng phải biết nâng đỡ nhau. Tục ngữ ta có câu "Chị ngã em nâng". Đó là những anh chị em thương yêu nhau thật sự. Còn những anh chị em không thương yêu nhau thì "Chị ngã, em dửng dưng đứng nhìn, hoặc tệ hơn nữa chị ngã mà em khoái chí !
Nhưng cụ thể, nâng đỡ như thế nào ?
- Trước hết là nâng đỡ khi thành công. Nhưng khi thành công thì cần gì nâng đỡ ? Ta dễ nghĩ như vậy. Nhưng thực tế lại không như vậy. Bởi vì ai trong chúng ta cũng có sẵn tính ganh ghét mặc dù mình không muốn nhìn nhận. Sự thành công của người khác có thể gợi lên trong ta cái tính ganh ghét nằm sẵn đó. Cho nên khi anh chị em ta thành công mà ta biết nâng đỡ bằng cách chia vui, chúc mừng, khích lệ thì đương nhiên là ta đã loại bỏ không cho tính ganh ghét trỗi dậy.
- Sự nâng đỡ càng cần thiết hơn khi anh chị em mình thất bại. Người thất bại thì dĩ nhiên phải đau buồn. Đau buồn thì cần người an ủi, đỡ nâng. Cần mà không gặp thì cô đơn chua xót. Nếu đã không gặp được nâng đỡ mà lại còn thấy anh chị em vui mừng hỉ hả vì thất bại của mình thì chẳng những cô đơn chua xót mà còn thêm đắng cay, hận thù. Có một người lâm vào tình cảnh đắng cay như thế đã than : "Lúc này tôi hoàn toàn cô độc. Buồn một mình, khổ một mình, khóc một mình. Tôi chỉ thấy có một vật có thiện cảm với tôi, đó là con chó của tôi. Chỉ có thế thôi". Cái tâm trạng chán chường cay đắng vì thiếu nâng đỡ ấy dễ đưa người ta tới chỗ sa sút tinh thần, như có người nhận xét : Ít có người đã tự tử vì không chịu nỗi những đau đớn thân xác. Nhưng hầu hết các người tự tử vì không chịu nỗi đau khổ trong tâm hồn. Và có những người trong anh chị em chúng ta trong lúc buồn nản đã không tự tử phần xác, nhưng đã tự tử phần hồn. Tự tử phần hồn là gì ? Là sa đọa, là bất cần, là nổi loạn làm cho gia đình tan nát, làm cho tình nghĩa anh chị em ruột thịt đổ vỡ.
Một vị thánh đã nói "Yêu thương phải bắt đầu từ những người thân rồi mới lan xa tới những người khác". Những người thân mà chúng ta đề cập nãy giờ chính là anh chị em ruột thịt của mình.
4. "Cứ dấu này mà người ta nhận biết…"
Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây này nhỏ xíu, tưởng như mất hút trong khu rừng giữa những cây to lớn. Nhưng nó hết sức cố gắng vươn lên nên một thời gian sau nó cũng cao và cũng lớn không thua kém gì các cây khác.
Một hôm ông chủ của nó vào rừng thăm nó. Ông rất ngạc nhiên thấy nó cao lớn như thế. Ông trầm trồ khen ngợi :
- Thật không ngờ mi lớn nhanh như thế. Tuyệt vời quá !
Nhưng cái cây khiêm tốn đáp lại :
- Chưa tuyệt vời đâu thưa ông chủ. Tôi thấy mình còn rất nhiều khuyết điểm. Thân tôi còn nhiều chỗ xù xì, lồi lõm…
- Nhưng những cái đó không quan trọng. Ta chẳng quan tâm. Chỉ có điều này khiến ta chưa vừa lòng.
- Thưa ông chủ, tôi không hiểu. Tôi đã lớn lên, chẳng kém gì những cây thông, cây sồi.
Ông chủ giải thích :
- Nhưng mi không phải là loại cây cần có lá có cành thật lớn. Mi là cây ăn trái. Trái chính là điểm đặc biệt quý giá nơi mi. Thế mà mi chưa sinh ra dược trái nào cả !
Người ta sẽ nhận biết cây nào thuộc loại cây ăn trái nếu người ta thấy nó có trái. Cũng thế, người ta sẽ nhận biết ai là môn đệ Chúa Giêsu nếu người ta thấy họ yêu thương nhau.
Nhiều kitô hữu cố gắng làm đủ mọi chuyện, chỉ trừ chuyện yêu thương nhau !
Nhìn thấy Mẹ Têrêsa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy mình, một nhà báo nói : "Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả cho tôi một triệu đôla". Mẹ Têrêsa đáp : "Chính tôi cũng không làm nổi việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa" (FM)
5. Sức mạnh của yêu thương
Kể về kinh nghiệm lúc ở trại tập trung Auschwitz, Elie Wiesel nói : những người cai tù Đức cố gắng làm cho các tù nhân quên hết bà con và bạn bè, để chỉ nghĩ tới bản thân và chỉ lo cho nhu cầu bản thân mà thôi. Họ nói rằng đó là cách để sống còn. Nhưng Wiesel thấy ngược lại : người nào chỉ biết sống cho mình thì cơ may sống sót rất ít, trái lại người nào còn nghĩ tới gia đình, bạn bè, thân thuộc, hay còn nuôi một lý tưởng thì cơ may sống sót nhiều hơn. Chính những ý tưởng yêu thương ấy đã giúp họ sống.
Tính vị kỷ khép cửa lòng ta lại và thu hẹp thế giới của ta, giam hãm ta. Nó dựng lên những rào cản, thậm chí những bức tường ngăn cách ta với tha nhân. Điều giải thoát ta khỏi sự giam hãm ấy chính là tình yêu thương thực sự và sâu đậm của ta đối với người khác.
Tình yêu luôn đòi hỏi chúng ta phải cho đi điều tốt nhất và tình yêu cũng mang điều tốt nhất lại cho ta. Khi được yêu, ta có được can đảm và nghị lực phi thường. Khi yêu cũng thế. Nhiều khi tình yêu còn làm được những điều như phép lạ. Elizabeth Kubler Ross viết : "Tình yêu là ngọn lửa sưởi ấm cho cõi lòng, tăng cường nghị lực cho tinh thần và cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống".
Nếu không có tình yêu thì người ta sẽ ra sao ? Thưa người ta sẽ sống rất nghèo nàn. Còn người yêu thương thì sống rất phong phú.
Mục đích cuộc đời là gì nếu không phải là yêu ? Tự do không bị trói buộc trong tính vị kỷ và có khả năng yêu thương tha nhân, đó chính là sống.
Một bác sĩ đã chứng kiến nhiều người hấp hối cho biết : lúc sắp chết, người ta không nghĩ đến mình đã đậu được những bằng cấp gì, đã chiếm được địa vị nào trong xã hội, hay đã kiến được bao nhiêu tiền… Điều duy nhất những người ấy nghĩ đến, đó là những người họ yêu và những người yêu họ. (FM)
6. Những loại tình yêu
Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp của bản tính loài người, và về những động cơ khác nhau đàng sau những việc chúng ta làm.
Yêu thương chẳng hạn. Thật không đơn giản, mà có tới ít ra 5 loại :
- Thứ nhất là tình yêu vụ lợi : ta yêu thương người nào đó vì người đó có lợi cho ta. Nhưng đây không phải là tình yêu mà là vị kỷ. Tôi yêu điều gì đó nơi bạn chứ tôi không yêu bạn.
- Thứ hai là tình yêu lãng mạn : chúng ta có tình cảm với người nào đó bởi vì người ấy làm cho mình thích. Đây cũng không phải là tình yêu mà chỉ là đam mê. Ta tưởng mình yêu người đó nhưng thực chất là ta yêu chính mình. Thông thường tình yêu lãng mạn không bền vững. Bởi đó nhiều cặp vợ chồng bị thất bại.
- Thứ ba là tình yêu "dân chủ", dựa trên sự bình đẳng trước pháp luật. Ta tôn trọng người khác vì họ cũng là công dân như ta. Ta nhìn nhận những quyền tự do của họ để họ cũng nhìn nhận những quyền tự do của ta. Sở dĩ ta làm điều gì tốt cho họ là vì để họ cũng làm điều tốt cho ta.
- Thứ tư là tình yêu nhân bản : đây là yêu người cách chung. Điểm yếu của loại tình yêu này là trừu tượng chứ ít khi cụ thể : tôi yêu người, nhưng tôi không gắn bó với người nào cả.
- Thứ năm là tình yêu kitô, nghĩa là yêu như Đức Kitô đã yêu. Đây là tình yêu vô vụ lợi, yêu khi chẳng có gì lợi cho mình. Tình yêu này tồn tại vững bền bất chấp thù nghịch và bắt bớ. Tình yêu này thể hiện qua phục vụ và hy sinh. Chúng ta chỉ có thể yêu đến mức độ thứ năm này nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Ta thường hiểu yêu theo nghĩa thụ động hơn là chủ động. Nói cách khác, ta mong "được người yêu" hơn là "yêu người". Vì nghĩ thế nên ta dồn mọi cố gắng để thành công, để giàu có, để có sức quyến rũ… Kết quả là chẳng được tình yêu thực sự nào cả, vì người khác chỉ yêu cái thành công, cái giàu có và cái quyến rũ của ta chứ không phải yêu ta. Trái lại nếu ta "yêu người" thì người sẽ yêu ta vì chính con người của ta.
Có 3 tình trạng yêu thương : (1) Không yêu và không được yêu : tình trạng này giống như hỏa ngục ngay ở đời này ; (2) Yêu mà không được yêu lại : tình trạng này tuy đau khổ nhưng khá hơn tình trạng thứ nhất ; (3) Yêu và được yêu : đây chính là tình trạng hạnh phúc của Chúa Giêsu :"Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con".
Tình yêu là một sự chọn lựa, vì không ai ép được tình yêu. Nhưng từ chối không yêu tức là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong các điều tồi tệ là một cuộc sống lạnh lẽo vô tình. (FM)
7. Chuyện minh họa
Có hai anh em nhà kia : người anh tên Stephen 12 tuổi có một chân què ; người em tên Mark 10 tuổi cả hai chân đều mạnh khoẻ. Nhiều khi Stephen ganh tị với em, thậm chí còn muốn em mình què còn mình thì đủ hai chân mạnh khoẻ.
Một đêm kia Stephen nằm mơ thấy mình lạc vào một khu rừng và gặp một bà phù thuỷ. Bà này ban cho cậu một điều ước, ước gì được nấy. Stephen chẳng chút do dự ước ngay : "Ước gì tôi có đôi chân mạnh khoẻ". Bà phù thuỷ liền mang Stephan từ khu rừng trở lại nhà cậu. Khi ấy Mark em cậu đang ngủ. Bà phù thuỷ giở tấm mền của Mark ra. Stephen hỏi :
- Bà làm gì thế ?
Phù thuỷ đáp :
- Ta sắp giải phẫu, lấy đôi chân của em cậu sang cho cậu và rồi lấy đôi chân của cậu cho nó.
- Không thể được.
- Có sao đâu, khi tỉnh dậy em cậu sẽ chẳng biết gì hết. Nó cứ tưởng là từ trước tới nay nó vẫn có một chiếc chân què.
Stephen thoáng nghĩ đến tương lai. Cậu thấy mình chạy giỡn thoải mái với đôi chân lành. Cậu rất sung sướng. Nhưng khi nhìn lại phía sau thì thấy Mark khổ sở chạy theo với một cái chân khập khiễng thì Cậu không chịu được. Khi ấy cậu nói với bà phù thuỷ : "Tôi không muốn có đôi chân lành lặn nữa."
Giật mình thức dậy, Stephan nhìn xuống đôi chân của mình, rồi nhìn sang đôi chân của em. Thấy mọi sự vẫn như cũ, cậu mỉm cười sung sướng. Từ đó trở đi, không khi nào cậu còn ganh tị với em nữa.
Stephan muốn sung sướng, nhưng không phải bằng cái giá là sự đau khổ của em mình. Hạnh phúc thật chỉ được xây dựng bằng một tình yêu không vị kỷ. Yêu thương ai là dặt người ấy lên hàng đầu. (FM)
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa. nếu đồng phục của Kitô hữu là yêu thương thì xin cho chúng con luôn tỏa sáng trong cuộc sống những lời nói yêu thương, những nghĩa cử nhân hậu, những hành động xả thân cho anh em, để xứng đáng làm môn đệ Đấng đã yêu thương chúng con cho đến cùng.
Xin cho suối nguồn tình yêu của Chúa tuôn chảy vào tâm hồn chúng con, không đọng lại như nước ao tù nhưng luôn là dòng chảy tình yêu đến với mọi người, để khắp thế giới tràn đầy tình yêu Chúa. Amen.

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Ánh sáng

Khi ấy, Chúa Giêsu lớn tiếng nói rằng: "Ai tin vào Ta thì không phải là tin vào Ta, nhưng là tin vào Đấng đã sai Ta. Và ai thấy Ta là thấy Đấng đã sai Ta. Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không ở trong sự tối tăm. Nếu ai nghe lời Ta mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết. Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Đấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì. Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Chủ đề ánh sáng là chủ đề lớn trong Phúc Âm Gioan. Ngay từ bài tiền ngôn Gioan đã viết: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người”. Việc Chúa Giêsu giáng thế cũng như một luồng ánh sáng đến trong đêm tối. Và rồi sau một thời gian Chúa Giêsu sống với loài người, một số đã đến với Ngài, nhưng một số vẫn từ chối Ngài. Bài Phúc Âm này là phần cuối sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài nhắc lại: “Ta là sự sáng đã đến thế gian…” Những ai không đón nhận Người là tự ý ở trong tối tăm, ấy là án xét xử họ do chính họ tự xử lấy.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Sống ở đời là sống trong cảnh tranh tối tranh sáng. Ngay trong lòng ta cũng có bóng tối và ánh sánh phân tranh. Nhiều khi ta cứ lưỡng lự trước những sự lựa chọn, nửa muốn chọn theo ánh sáng, nửa muốn chọn theo bóng tối. Là Kitô hữu, ta phải tập quen hành động theo sự sáng.
2. Người đời hay mê lầm: có người nghĩ rằng trong cuộc sống không gì quan trọng bằng tiền bạc, người khác nghĩ không gì quan trọng bằng lạc thú, người khác nữa nghĩ không gì quan trọng bằng địa vị… Tại vì họ không được ánh sáng Chúa soi dẫn. Bởi thế, Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy theo ánh sáng của Ngài.
3. Một hôm, vị đạo sĩ hỏi đệ tử: làm sao có thể biết được là ngày đã đến và đêm sắp kết thúc. Mỗi đệ tử trả lời một cánh khách nhau nhưng không câu nào làm ông hài lòng. Sau cùng ông nói: “khi chúng ta nhìn vào người bên cạnh, nếu chúng ta có thể nhìn người đó như người anh em của chúng ta, thì lúc đó là ngày cho chúng ta, nhưng bao lâu chúng ta chưa đạt được điều này thì chúng ta sống trong đêm tối”. (Góp nhặt).
4. Chúng ta phải sống như con cái sự sáng, không phải vì ích lợi cho chúng ta, mà còn để cho đời này bớt tối tăm. Thánh Phalô khuyên: “Anh em hãy chiếu sáng như những vòm sao trên bầu trời thế gian”.
5. Ánh sáng là một tác phẩm quan trọng đến nỗi Chúa đã làm ra nó trước cả trời và đất. Khi có ánh sáng thì mọi sự khác xuất hiện theo. Hãy nhìn quanh ta, ta sẽ thấy ánh sáng giúp ta rất nhiều cách: ánh sáng mặt trời làm cho sinh vật lớn lên, sưởi ấm con người, hong khô quần áo. Nhờ có ánh sáng ta mới thấy được sự vật quang ta. Ánh sáng còn là thuốc chữa trị nhiều thứ bệnh và tiêu diệt nhiều thứ độc hại. Hãy nghĩ tới ánh sáng của các ngọn đèn: ta dùng chúng để trang hoàng nhà cửa, nhờ chúng ta mới thấy đường đi trong đêm tối, nếu không có ánh sáng, sinh vật sẽ chết dần chết mòn… Bởi thế, người ta sợ bóng tối và vui mừng vì ánh sáng (Frank Mihalic).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con thât hạnh phúc vì được Chúa ngự đến viếng thăm. Chúa là Chúa cả trời đất. Chúa là Đấng tạo thành. Chúa là Chúa, là vua Cả Trời Đất. Thế mà Chúa đã phá bỏ mọi ngăn cách để đến với chúng con trong khiêm tốn âm thầm. Với tấm bánh đơn sơ Chúa hòa nhập vào cuộc đời chúng con. Chúa trở nên người bạn luôn ở bên chúng con. Chúa luôn đồng hành và nhắc nhở chúng con sống xứng đáng là con Cha trên trời. Chúng con xin cảm tạ tình thương ưu ái mà Chúa đã dành cho chúng con.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, lời Chúa là lời chân lý. Chúa có lời ban sự sống đời đời. Xin cho chúng con biết mau mắn tuân theo Lời Chúa. Xin giúp chúng con đừng vì những đam mê mù quáng để rồi ngoảnh mặt làm ngơ trước tiếng nói của Chúa. Xin ban ơn để chúng con thắng vượt những yếu đuối bản thân, biết làm chủ tư tưởng, ước muốn, lời nói, việc làm cùa mình theo đường lối huấn lệnh của Chúa. Xin cho chúng con biết bước đi trong ánh sáng Lời Chúa, biết ăn ở ngay lành theo tiếng nói của lương tâm. Xin cho chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa qua việc lắng nghe và thực thi lời Chúa.
Lạy Chúa, Chúa hằng mong muốn chúng con được sống đời đời. Xin ban cho chúng con một lương tâm ngay thằng để chúng con biết sống đúng với phẩm giá làm người của mình. Xin cho chúng con mau mắn tuân theo lề luật tối thượng của Chúa để lề luật của Chúa sẽ gìn giữ chúng con khỏi chết muôn đời. Amen.

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Theo Chúa

Khi ấy, người ta mừng lễ Cung Hiến tại Giêrusalem. Bấy giờ là mùa đông. Chúa Giêsu đi bách bộ tại đền thờ, dưới cửa Salômôn. Người Do-thái vây quanh Người và nói: "Ông còn để chúng tôi thắc mắc cho đến bao giờ? Nếu ông là Đức Kitô, thì xin ông nói rõ cho chúng tôi biết". Chúa Giêsu đáp: "Tôi đã nói với các ông mà các ông không tin. Những việc Tôi làm nhân danh Cha Tôi, làm chứng về Tôi. Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đàn chiên tôi. Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất, và không ai có thể cướp được chúng khỏi tay Tôi. Điều mà Cha Tôi ban cho Tôi, thì cao trọng hơn tất cả, và không ai có thể cướp được khỏi tay Cha Tôi. Tôi và Cha Tôi là một".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Tiếp theo bài giáo lý sống theo sự dẫn dắt của Chúa:
Chúa Giêsu là Mục tử: “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi. Tôi cho chúng được sống đời đời, chúng sẽ không bao giờ hư mất”.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Tôi biết chiên của tôi. “Biết” theo thánh Gioan là “yêu thương”
Có một câu chuyện truyền kỳ rất hay kể lúc Môisen trốn khỏi Ai cập, chăn chiên cho Giêtrô trong đồng vắng: có một con chiên trong bầy bỏ đàn đi mất Môisen kiên nhẫn đi tìm nó và ông đã tìm thấy nó đang uống nước bên giòng suối. Môisen đến bên nó để tay trên mình nó và nói thật nhỏ nhẹ:
- Tại vì mày khát nên mày bỏ đi? Ông không giận con chiên vì nó đã làm ông mệt mỏi, nhưng cảm thông với nó và mang nó trở về. Thượng Đế nhìn thấy như vậy, Ngài phán: “Nếu người này thương xót một con chiên đi lạc như vậy, đây chính là người ta muốn lập làm người lãnh đạo dân ta”.
2. “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”. Phụng vụ đang dạy chúng ta sống dưới sự dẫn dắt của Chúa Giêsu Mục tử tốt lành. Muốn thế, ta phải “nghe tiếng” Ngài và “đi theo” Ngài. Chiên không nghe theo tiếng người lạ.
Một người Mỹ đi du lịch qua xứ Syria, đã thấy ba người chăn chiên dẫn bầy mình ăn chung với nhau. Một lúc sau, một trong ba người chăn này kêu chiên mình:
-Men ah! Men ah! (Theo tiếng Ả rập có nghĩa là "Hãy theo ta! Hãy theo ta!")
Các con chiên của người này liền tách khỏi bầy và đitheo người ấy lên đồi.
Người chăn thứ hai cũng kêu như vậy, và chiên của anh ta liền đi theo anh ta.
Người Mỹ nói với người chăn thứ ba:
- Xin anh vui lòng cho tôi mang đồ đạc của anh để tôi kêu như anh kêu, xem các con chiên này có theo tôi hay không.
Anh ta sẵn sàng cho người Mỹ này mược đồ đạc. Xong xuôi, người Mỹ kêu :"Men ah! Men ah!", nhưng chẳng có con chiên nào nhúc nhích. Lạ quá Người Mỹ ngạc nhiên hỏi:
- Thế chiên không nghe tiếng ai khác, ngoại trừ anh thôi sao?
Người chăn Syria trả lời:
- Ồ! Có chứ! Vài con chiên bị bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai.
Người ta tìm thấy trong một cuốn nhật ký những tâm tình sau đây:
Suốt đời tôi, tôi rất sợ chết, cho đến ngày một đứa con tôi về với Chúa. Trong lễ nghi an táng cháu, Cha sở kể câu chuyện sau: “Một Mục tử dẫn bầy chiên đến bờ sông. Nhìn dòng nước chảy xiết, tự nhiên bầy cừu sợ hãi. Người mục tử không làm sao hối thúc chúng qua được. Cuối cùng ông lựa ra một con cừu non, cùng đi với nó xuống dòng nước và dắt nó qua bên bờ bên kia. Khi cừu mẹ thấy con mình ra đi, nó quên cả sợ hãi và phóng theo. Và thế là cả bầy cừu nối đuôi nhau theo sự hướng dẫn của người Mục tử.
Một mai nếu có phải theo con tôi về với Chúa, tôi chẳng sợ (Góp nhặt).
3. “Chiên Tôi thì nghe tiếng Tôi, Tôi biết chúng và chúng theo Tôi”.
Chúa Giêsu là vị Mục tử nhân hậu và tốt lành. Ngài không những biết rõ và biết từng con chiên mà còn yêu thương chăm sóc và hiến mạng sống vì đoàn chiên. Ngài sống lại và trở nên nguồn sống của đoàn chiên. Phần tôi, một con chiên trong đàn, tôi cũng được Ngài yêu thương chăm sóc vỗ về, nhưng tôi còn biết quá ít về Ngài và chưa theo Ngài trọn vẹn.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa là tấm bánh nuôi chúng con. Chúa hằng mong ước chúng con được sống và sống dồi dào. Xin cho chúng con biết đặt trọn niềm tin tưởng và phó thác nơi Chúa. Xin cho Lời Chúa mãi là ngọn đèn soi dẫn bước chân chúng con đi trong chân lý và sự thật. Xin Mình và Máu Thánh Chúa nuôi dưỡng chúng con trong ân sủng và tình thương của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa hằng tha thiết kêu mời chúng con. Chiên Ta thì nghe tiếng Ta. Chúa không muốn chúng con đi theo tiếng của ma quỷ dẫn dắt vào đường xấu, vào con đường chết đời đời. Chúa muốn chúng con quay trở về với biển trời mênh mông của Chúa. Chúa muốn chúng con sống theo Lời Chúa vì: “cá không ăn muối cá ươn”. Cuộc đời chúng con đi lạc xa lời Chúa cũng sẽ rơi vào hố diệt vong đời đời. Chúa không muốn một ai trong chúng con phải hư mất. Chúa luôn tìm cách bảo vệ và che chở chúng con khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi hiểm nguy của ba thù.
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho niềm khao khát sống với Chúa nơi chúng con được sống lại, để chúng con luôn được thuộc trọn về Chúa. Xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết đặt Chúa là trung tâm điểm của đời sống chúng con, biết tìm kiếm của ăn không bao giờ hư nát là chính Chúa và giáo lý của Chúa để chúng con được no đầy ân tình của Chúa hôm nay và hạnh phúc nước trời mai sau. Amen.

Cửa chuồng chiên

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: "Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ". Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: "Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Đoạn Phúc Âm hôm nay trình bày Chúa Giêsu là cửa chuồng chiên:
“Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp”: Chúa Giêsu ám chỉ những người biệt phái và luật sỹ. Họ không được Thiên Chúa uỷ nhiệm, họ chỉ dành quyền lãnh đạo tôn giáo, không chỉ để mưu cầu ích lợi cho dân, mà chỉ để tìm vinh dự và quyền lợi riêng.
“Ta là cửa chuồng chiên”: Chính Chúa Giêsu là cửa đích thực của dân. Ngài đi vào đường hoàng, được người canh gác mở cửa cho, gọi tên từng con chiên, chiên quen tiếng nên đi theo, Ngài dẫn chúng đi ăn…
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Chúa chúng ta không phải là một Thiên Chúa cao vời xa cách, mà là một Thiên Chúa gần gũi yêu thương, như một Mục tử sống sát với đàn chiên, hiểu biết, yêu thương và chăm sóc từng con chiên một… Giả như tôi có là một con chiên yếu đau, què quặt, Chúa đã biết và vẫn thương tôi, hơn nữa còn chăm sóc tôi đặc biệt hơn các chiên khác. Vì thế nên tôi phó thác sống theo sự dẫn dắt của Ngài.
2. Từ lâu, tôi cứ vẫn ấm ức không hiểu tại sao khi minh họa chân dung mình trong dụ ngôn Mục tử tốt lành, Chúa Giêsu lúc thì ví minh như Mục tử, lúc thì ví mình như cửa chuồng chiên. Gần đây, một cuốn sách đã giải toả cho tôi thắc mắc đó. Sách viết: một du khách đến Palestin, gặp được một Mục tử đang làm việc tại một trại cừu. Người đó chỉ cho du khách thấy cảnh vật biến ảo của cánh rừng. Thấy thế, du khách hỏi: “Đó là trại cừu, kia là mấy bầy cừu, đây là lối vào. Vậy còn cửa đâu?” Người Mục tử hỏi lại: “Cửa hả? Chính tôi là cửa. Ban đêm tôi nằm giữa lối đi này. Không một con cừu nào bước ra hay một con sói nào bước vào mà không phải qua xác tôi”. Thế đó, Đức Giêsu đâu có lẫn lộn khi trình bày chân dung mình: Ngài vừa là Mục tử vừa là cửa vào (Góp nhặt).
3. “Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy.”
Tôi xin chọn Người làm gia nghiệp tôi mãi mãi. Trọn đời tôi trót cả đời tôi, trọn tuổi xuân, dâng cả tình yêu luôn với ước mơ…” Đối với tôi, đó không chỉ là một bài hát, là những nốt nhạc, nhưng là tâm nguyện, là cuộc đời của một chàng trai đã dám từ bỏ tất cả: Tương lai rược rỡ, một người yêu tuyệt vời và cả những cuộc vui cùng bạn bè, để bước theo tiếng Chúa gọi.
Đã bao lần tôi muốn quyết định… nhưng rồi lại thôi. Muốn đặt bước chân mình lên bước chân Người, định đưa tay ra để Người nắm và dắt tôi đi, nhưng lại hèn nhát rụt tay lại.
Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con, và xin cho con biết đón nhận thánh ý Người. (Epphata)
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa đã thiết lập bí tích Thánh Thể như dấu chỉ sự hiệp nhất chúng con nên một trong tình yêu của Chúa là Cha, như lời bài hát đơn sơ diễn tả: “Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây”. Bởi lẽ, tuổi thơ con cái thường vui đùa bên cha mẹ, luôn cảm thấy an vui khi cha mẹ ở bên. Nhờ cha mẹ mà con cái xum vầy bên nhau. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa hiện diện với chúng con như người cha ở giữa con cái mình. Sự hiện diện của Chúa đã quy tụ chúng con nên một đàn chiên duy nhất là giáo xứ thân yêu của chúng con. Niềm vui của sự xum vầy và hạnh phúc của tình huynh đệ càng nhân lên nếu chúng con biết sống trong sự hướng dẫn và quan phòng của Chúa.
Lạy Chúa, Chúa là mục tử chăn dắt cuộc đời chúng con. Chúng con xin phó dâng cuộc đời cho lòng thương xót của Chúa. Xin Chúa gìn giữ chúng con khỏi sự tấn công của thế gian và ma quỷ. Xin Chúa cũng lưu lại nơi gia đình chúng con để hàn gắn những đổ vỡ, hiểu lầm và tái tạo tình hiệp nhất yêu thương. Xin cho mọi người trong giáo xứ chúng con luôn thiết tha với tâm nguyện: xin hợp nhất chúng con nên một trong tình yêu của Chúa ngõ hầu danh Chúa được cả sáng nơi xứ đạo thân thương này.
Lạy Chúa, đồng cỏ xanh ngát mà Chúa cho chúng con hưởng dùng chính là Mình Máu Thánh Chúa. Chính Chúa đã dẫn đưa chúng con đến giòng suốt ân tình là các bí tích nhiệm màu. Chúng con xin tạ ơn Chúa. Xin cho chúng con luôn được no thoả ân tình của Chúa. Amen.

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

Ta là Bánh Ban Sự Sống

Khi ấy, Chúa Giêsu phán với dân chúng rằng: "Không ai đến được với Ta, nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy, và Ta, Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết. Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'. Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta. Không một ai đã xem thấy Cha, trừ Đấng bởi Thiên Chúa mà ra, Đấng ấy đã thấy Cha. Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời. Ta là bánh ban sự sống. Cha ông các ngươi đã ăn manna trong sa mạc và đã chết. Đây là bánh bởi trời xuống, để ai ăn bánh này thì khỏi chết. Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, chính là thịt Ta, để cho thế gian được sống".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Tiếp tục ý tưởng hôm qua về “đến với” và “tin vào” Chúa.
Việc “tin vào” Chúa Giêsu, thể hiện bằng việc “đến với” Ngài là kết quả của sự hợp tác hai phía:
Phía Thiên Chúa: Thiên Chúa ban ơn “lôi kéo” con người người tin vào Chúa Giêsu và đến với Ngài: “Không ai đến được với Ta, nếu Cha, là Đấng sai Ta, không lôi kéo kẻ ấy” (câu 44). Thực ra, Thiên Chúa luôn muốn lôi kéo con người đến với Chúa Giêsu để con người được sống. Nhưng con người ít ra phải ngoan ngoãn để cho Thiên Chúa lôi kéo. Nhiều người Do Thái đã không ngoan ngoãn như vậy nên đã không đến được với Chúa Giêsu.
Phía con người: Phải “nghe lời dạy bảo” của Thiên Chúa: “Ai nghe lời giáo hoá của Cha, thì đến với Ta” (câu 45). Mà Thiên Chúa thì luôn dạy bảo con người: “Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo'” (câu 45). Câu nói này ngầm trích dẫn Is 54,13. Mà đại ý chương 45 sách Isaia là kinh nghiệm của dân Israel vào cuối thời lưu đày: họ đã thấy rằng Thiên Chúa luôn quyến luyến con người như một người chồng quyến luyến vợ. Đó chính là giáo hoá mà Thiên Chúa đã ban cho Israel qua dòng lịch sử. Như thế, “nghe lời dạy bảo của Thiên Chúa” nghĩa là ý thức rắng Thiên Chúa luôn yêu thương mình.
Tóm lại việc “tin vào” Chúa Giêsu và “đến với” Ngài là điều Thiên Chúa yêu thương và luôn tạo điều kiện để con người thực hiện được dễ dàng. Chỉ cần ngoan ngoãn phó thác vào tình thương Thiên Chúa thì con người có thể làm được.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Hôm qua chúng ta đã hiểu được ích lợi của việc đến với Chúa (“Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ.”). Nhưng xét lại mình, chúng ta thấy mình ít đến với Chúa. Ít đến vì một việc xem ra đơn giản như thế lại quá khó đối với bản tính của chúng ta. Hôm nay Chúa Giêsu dạy thêm: muốn đến với Ngài thì hãy để cho tình thương của Chúa lôi kéo và hãy nhớ giáo huấn của Ngài trong lịch sử là Ngài rất yêu thương loài người. Đừng ngoan cố với tình thương ấy, đừng kháng cự với tình thương ấy.
2. Một buổi chiều rảnh rỗi, văn hào Paul Claudel thong thả dạo bước nhàn du. Khi đi ngang một nhà thờ, tiếng thánh ca từ đó vọng ra đã lôi kéo bước chân ông đi vào nhà thờ. Ở đó ông đã gặp Thiên Chúa, gặp niềm tin. Đó là một cách lôi kéo của Thiên Chúa. Thiên Chúa cũng dùng biết bao cách khác để lôi kéo chúng ta. Chỉ cần ta đừng cố chấp nhưng ngoan ngoãn bước theo, thì ta sẽ “đến” được với Ngài. Hãy nhớ lại xem đã bao nhiêu lần và những lần đó thế nào, tôi đã lỡ mất đã không ngoan ngoãn bước theo sự lôi kéo của Thiên Chúa.
3. Người câm không nói được nhưng có cách làm để cho người khác hiểu được họ, đó là dùng dấu hiệu bằng tay, bằng nét mặt, có khi bằng cả thân thể. Tuy nhiên, muốn hiểu được người câm thì ta phải chú ý từng động tác nhỏ của họ. Rất nhiều khi Thiên Chúa nói với ta bằng ngôn ngữ của người câm. Ta cần chú ý lắm mới hiểu được ý của Thiên Chúa.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh thể, chúng con tin nhận Thánh Thể Chúa là bánh trường sinh. Ai ăn bánh này sẽ sống muôn đời. Xin Chúa thương ngự đến tâm hồn chúng con. Xin ban cho chúng con sự sống của Chúa để chúng con có được sự sống trường sinh nơi con người chúng con.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa đã hứa rằng: “ai tin vào Ta sẽ không chết bao giờ”. Xin ban cho chúng con có một đức tin đủ để chúng con biết phó dâng cuộc đời trong tay Chúa. Xin ban cho chúng con một đức tin nồng nàn để chúng con luôn yêu mến và thi hành thánh ý Chúa. Xin ban cho chúng con một đức tin sắt son để chúng trung thành sống theo giáo huấn của Chúa.
Lạy Chúa là Đấng mà ai gặp gỡ cũng được đổi mới. Từ Giakêu đã trở thành Lêvi. Từ cô gái tội lỗi đã trở thành thánh nữ Madalena. Từ một người thuyền chài ít học lại trở thành người dẫn dắt con thuyền giáo hội ngay từ lúc sơ khai. Từ một kẻ từng bắt bớ Chúa lại trở thành một tông đồ Phaolô nhiệt thành. Tất cả đều nhờ tin vào Chúa mà được đổi mới cuộc đời. Xin cho chúng con cũng được đổi mới cuộc đời mỗi khi được rước Chúa vào lòng. Xin giúp chúng con biết đứng dậy làm lại cuộc đời sau mỗi lần vấp ngã. Xin giúp chúng con biết hoàn thiện mình một ngày nên thánh thiện như Chúa là Đấng Thánh vô cùng. Amen.

Thứ Ba, 16 tháng 4, 2013

Ta chẳng để mất...

Khi ấy, Chúa Giêsu phán với đám đông rằng: "Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta, sẽ không hề đói; ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ. Nhưng Ta đã bảo các ngươi rằng: Các ngươi đã thấy Ta, nhưng các ngươi không chịu tin. Những ai Cha đã ban cho Ta sẽ đến với Ta. Và ai đến với Ta, Ta sẽ không xua đuổi ra ngoài. Bởi vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai Ta. Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất, nhưng ngày sau hết, Ta sẽ cho nó sống lại. Quả vậy, ý của Cha Ta là hễ ai thấy Con và tin vào Người thì có sự sống đời đời".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Nhắc lại bài Phúc Âm hôm qua: nghe Chúa Giêsu nói tới một thứ lương thực quý trọng hơn cả Manna ngày xưa nữa, dân Do Thái tưởng đó là thứ thức ăn đặc biệt no lâu nên xin Chúa ban cho họ thứ thức ăn đó mãi.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu nói với họ rằng “Chính Ta là bánh ban sự sống”.
Chúa Giêsu trở thành bánh sự sống cho loài người thế nào?
Khi người ta đến với Ngài: “Ai đến với Ta, sẽ không hề đói”.
Khi người ta tin vào Ngài: “Ai tin vào Ta, sẽ không hề khát bao giờ”.
Thực ra theo luật của cú pháp sóng đôi, “Đến với” và “Tin vào” không phải là hai việc khác nhau mà chỉ là hai cách diễn tả cùng một sự việc: Tin vào Chúa Giêsu, thể hiện ở thái độ đến với Ngài. Kết quả của công việc đó là không hề đói không hề khát.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Đức tin vào Chúa Giêsu phải thể hiện vào việc đến với Ngài. Một ngày tôi dành bao nhiêu thời gian để “đến với” Chúa.
2. Chúng ta “đến với” Chúa bằng nhiều cách: tưởng nhớ, cầu nguyện, suy gẫm, và nhất là tham dự Thánh Lễ. Hãy xét mình xem khi chúng ta làm những việc trên, lòng chúng ta có thực sự “đến với” Chúa không?
3. Khi tâm hồn tôi cảm thấy đói khát, tôi đã “đến với” ai, với cái gì? Có “đến với” Chúa không?
4. Buổi sáng bà lão ra ngoài. Buổi chiều bà trở về, bà không tìm thấy chìa khóa.
Không biết làm thế nào?! Bà chạy sang hàng xóm, mượn chìa khóa của họ mở thử, chẳng có cái nào hợp.
Cuối cùng một người góp ý: cứ mở then cài ra xem sao! Bà mở then và cánh cửa mở toang. Thì ra khi đi ra bà không khóa cửa.
Câu chuyện trên mô tả phần nào thái độ của chúng ta trước Chúa. Ta đứng ngoài, lòng đầy băn khoăn lo sợ. Ta nghĩ phải làm việc này việc nọ mới đáng đến với Chúa. Trong khi đó, cánh cửa nhà Chúa luôn mở rộng và ưu ái đón ta vào (Góp nhặt).
5. “Vậy ý của Cha, Đấng đã sai Ta, là hễ sự gì Người đã ban cho Ta, Ta chẳng để mất”.
…Chúa Giêsu và Hội Thánh bấy giờ xuất hiện với tôi như một cái gì khô cứng, sự khô cứng của những khái niệm thần học, những bổn phận “phải” làm hơn là một tình yêu thiết tha tung cánh… Rồi chẳng biết từ đâu, Triết lý phương Đông và Phật Giáo len lỏi vào tâm hồn tôi, phất phơ nhẹ nhàng nhưng sao có sức giật tung những gì tôi mòn mỏi. Tôi nằng nặc đòi nhà Dòng một năm phép, cho ra độc cư trên núi, sống với nắng, gió, mưa, đói, khát, và sự sợ hãi nữa. Nhưng mỗi lần tôi nhất tâm thất niệm thì vấn đề về Chúa Giêsu lại vang lên, đeo bám tôi mãi… Một năm phép đã hết, thân tàn ma dại, tôi thua cuộc, trở về nhà Dòng một cách trắng tay. Nhưng Chúa Giêsu vẫn cứ đeo bám tôi mãi. Đang trong một năm nổi loạn, thất bại và hư hỏng cùng cực đó, tôi được gọi làm linh mục. Hoang mang và sợ hãi, tâm hồn rối bời, tan nát, tôi vào ngồi thẫn thờ trong nhà nguyện như sự đay nghiến, một sự nức nở và đền tội…
Một đêm trước khi làm Linh mục vài hôm, tôi thử tiến lên đứng sát Nhà Tạm Thánh Thể. Có cái gì đó khác hơn là cảm giác, hơn cả sự rung động, mà là sự bao phủ lấy toàn bộ cuộc đời và con người tôi. Ngay giây phút đó, tôi “hiểu” rằng cho dù có là hòn đá hòn sỏi, dù tôi đã lấm bùn bê bết, dù tôi đã thân tàn ma dại, dù tôi đã hỏng hết cả cuộc đời, thì Chúa Giêsu vẫn gọi và chọn tôi, làm tâm hồn tôi bừng sáng huy hoàng. Và tôi gọi Ngài là Chúa, Cứu Chúa của đời tôi…
Lạy Chúa, chứng từ này giúp con nghiệm ra rằng, dù phận hèn yếu đuối đến đâu, con vẫn được Ngài yêu thương vì Ngài là Đấng khoan dung bền vững muôn đời. (Epphata).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa là bánh bởi trời được ban xuống trần gian để lôi kéo con người về với Chúa Cha. Xin nhờ Mình và Máu Thánh Chúa Phục sinh đã chiến thắng sự chết đang hiện diện trong tâm hồn chúng con cũng biến đổi chúng con thành bất tử như Chúa. Xin giúp chúng con đón rước Chúa trong niềm tri ân cảm tạ, và biết sống kết hợp trọn vẹn với Chúa như cành liền cây, để mai sau chúng con cũng được sống lại vinh hiển với Chúa.
Lạy Chúa, ở đời ai cũng muốn cho mình được lưu danh hậu thế. Vì “không công danh thời nát với cỏ cây”. Ai cũng muốn được trường sinh bất tử. Chúng con thật hạnh phúc vì có thuốc trường sinh bất tử là chính Mình Thánh Chúa. Vì Chúa đã hứa “ai ăn bánh này thì sẽ không bao giờ phải chết, và Ta sẽ cho họ sống lại ngày sau hết”. Xin cho chúng con luôn dành thời giờ đến với Chúa qua việc siêng năng tham dự thánh lễ mỗi ngày. Xin giúp chúng con biết sống bất tử theo bước chân mà Chúa đã đi qua. Bước chân của yêu thương. Bước chân của bác ái vị tha. Bước chân của dâng hiến mạng sống cho anh em được sống và sống dồi dào. Vì mỗi nghĩa cử yêu thương là chúng con đang làm cho mình trở nên bất tử trước mặt mọi người và trước mặt Chúa.
Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn giầu lòng quảng đại như Chúa đã từng quảng đại với chúng con. Xin cho thế giới chúng con có nhiều người biết cho đi để tấm bánh sự sống trường sinh được đến với mọi người. Xin cho chúng con cũng trở nên dấu chỉ cho tình yêu của Chúa giữa thế giới khô cạn tình người hôm nay. Amen.

Thứ Hai, 15 tháng 4, 2013

Lương thực đem lại sự sống

Chủ Nhật, 14 tháng 4, 2013

Làm việc không phải vì của ăn hay hư nát

Hôm sau, đám người còn ở lại bên kia biển thấy rằng không có thuyền nào khác, duy chỉ có một chiếc, mà Chúa Giêsu không lên thuyền đó với các môn đệ, chỉ có các môn đệ ra đi mà thôi. Nhưng có nhiều thuyền khác từ Tibêria đến gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa dâng lời tạ ơn. Khi đám đông thấy không có Chúa Giêsu ở đó, và môn đệ cũng không, họ liền xuống các thuyền kia và đến Capharnaum tìm Chúa Giêsu. Khi gặp Người ở bờ biển bên kia, họ nói với Người: "Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ?" Chúa Giêsu đáp: "Thật, Ta bảo thật các ngươi, các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê. Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời, là của ăn Con Người sẽ ban cho các ngươi. Người là Đấng mà Thiên Chúa Cha đã ghi dấu". Họ liền thưa lại rằng: "Chúng tôi phải làm gì để gọi là làm việc của Thiên Chúa?" Chúa Giêsu đáp: "Đây là công việc của Thiên Chúa, là các ngươi hãy tin vào Đấng Ngài sai đến".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Bắt đầu bài giáo lý về Bí tích Thánh Thể: vì đã được ăn bánh no nê nên dân chúng đi tìm Chúa Giêsu. Sáng hôm sau, họ tìm gặp Ngài ở bên kia biển hồ. Ngài nói với họ: “...các ngươi tìm ta không phải vì các ngươi đã thấy những dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã được ăn bánh no nê”. Rồi Ngài dạy cho họ một thứ lương thực khác quan trọng hơn: “Các ngươi hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Vì còn mang thân xác nên con người còn bám víu quá nhiều vào những thứ thoả mãn các nhu cầu của thân xác. Thế nhưng là tín hữu, chúng ta đã biết ngoài sự sống thân xác này còn sự sống linh hồn nữa. Chúa Giêsu nhắc nhở dân chúng ngày xưa cũng là nhắc nhở chúng ta ngày nay: hằng ngày chúng con thường tìm gì? Tìm những thứ thoả mãn nhu cầu thân xác hay những thứ thoả mãn nhu cầu tâm linh?
2. Một lời nhắc nhở khác của Chúa: chúng con thường ra công làm việc vì cái gì: vì thức ăn hay hư nát hay thức ăn tồn tại đến cuộc sống đời đời?
3. “Nhà đấu quyền anh J. Demsey chỉ có thể thiếp ngủ vào lúc 2 giờ sáng sau khi đoạt giải vô địch chiều trước đó. Nhưng nằm ngủ được một tiếng đồng hồ, anh ta bỗng thức giấc vì nằm mơ thấy mình bị mất chức vô địch. Rồi vì không ngủ được, anh đi ra phố mua tờ báo vừa mới xuất bản để đọc lại những lời tường thuật trận đấu, hầu trấn an là mình còn giữ chức vô địch. Demsey ghi lại cảm tưởng của mình thế này: “Sau khi đọc bài báo, tôi hiểu rằng sự thành công không có mùi vị thơm ngon như tôi hằng mơ tưởng trước đó. Sau biến cố, tôi vẫn còn cảm thấy trống rỗng” (…) Có bao giờ chúng ta cảm nghiệm được như anh J. Demsey không? Chúng ta ta dồn tất cả tài năng, sức lực cho một danh vọng, một địa vị nào đó. Nhưng cuối cùng chỉ thấy trống rỗng, vô nghiã; bởi vì nó không giúp ta đạt tới hạnh phúc đích thực. Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu lên tiếng cảnh tỉnh: “Đừng mải mê chạy theo những gì không đem lại hạnh phúc đích thực”. (Mỗi ngày một tin vui).
4. “Hãy ra công làm việc không phải vì của ăn hay hư nát, nhưng vì của ăn tồn tại cho đến cuộc sống đời đời”.
Tôi đến nhà thờ mỗi tuần hầu như chỉ vì thói quen, vì khoe khoang quần áo hay chỉ vì tỏ ra mình là người đạo đức. Tôi đến với Chúa hầu như để giảm bớt cơn sầu hay xin xỏ điều này điều nọ.
Mặt khác tôi sống và làm việc, học tập chẳng qua chỉ vì muồn tìm cho mình một việc làm có lương bổng cao, một địa vị kha khá để mọi người phải kiêng nể.
Tôi nào đã biết mình đã nhắm sai mục đích. Mục đích trọng yếu là: “Sự sống đời đời”. Điều mà tôi chỉ thoáng nghĩ đến như một ý niệm mơ hồ.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết ra đi tìm kiếm Chúa, biết quy tụ mọi điểm về Chúa, biết tìm kiến của ăn không hư nát là chính Chúa và giáo lý của Ngài. (Epphata).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thế, năm xưa trên hành trình về đất hứa, Chúa đã nuôi dân riêng bằng bánh Manna từ trời. Ngày nay trên hành trình tiến về quê trời, Chúa nuôi dưỡng chúng con bằng bánh trường sinh, là Mình và Máu Thánh Chúa. Chúng con xin tri ân cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa là tất cả cuộc đời chúng con. Chúa là gia nghiệp, là thành luỹ , là hạnh phúc của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự, biết gắn bó với Chúa trên hết mọi sự. Xin giúp chúng con đừng vì những của ăn hư nát đời này mà đánh mất sự sống đời đời mai sau. Xin giúp chúng con biết thắng vượt những đam mê tật xấu để chúng con biết sống thanh cao, trong sạch và cao thượng. Xin cho chúng con biết tích góp của cải không bao giờ hư nát là gia tài trên trời bằng những việc lành phúc đức, những hành vi bác ái yêu thương. Xin đừng để chúng con ngụp lặn trong đam mê tội lỗi mà đánh mất hướng đi về trời.
Lạy Chúa, xưa Chúa đã nói “ai ăn bánh này sẽ có sự sống đời đời”. Xin cho chúng con mỗi lần rước Chúa là một lần chúng con được lớn lên trong ân sủng và tình yêu của Chúa. Xin cho chúng con biết siêng năng rước Chúa mỗi ngày để mai sau chúng con được chiêm ngưỡng dung nhan đích thực của Chúa trên quê trời. Amen.

Thứ Bảy, 13 tháng 4, 2013

Tín thác vào Chúa

Chiều đến, các môn đệ Chúa Giêsu xuống bờ biển. Rồi lên thuyền, sang bên kia, trẩy về hướng Capharnaum. Trời đã tối, mà Chúa Giêsu vẫn chưa đến với họ. Bỗng cuồng phong thổi lên, biển động mạnh. Khi chèo đi được chừng hai mươi lăm hay ba mươi dặm, thì họ thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển, tiến lại gần thuyền, họ hoảng sợ. Nhưng Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ". Họ định rước Người lên thuyền, nhưng ngay lúc ấy, thuyền đã đến nơi họ định tới.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Một câu chuyện nhỏ được cho xen vào sau phép lạ hóa bánh ra nhiều: Chúa Giêsu đi trên mặt nước.
Câu chuyện xảy ra khi bóng chiều đã phủ xuống. Trong Thánh Kinh, đêm tối là thời gian thuận tiện để Chúa mặc khải. Vậy chuyện này muốn mặc khải cho các môn đệ biết thêm về mầu nhiệm của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đi trên mặt nước, và khi các môn đệ gặp Ngài, Ngài nói “Chính Thầy đây, đừng sợ”: trong Thánh Kinh, chỉ có Thiên Chúa và những người được Thiên Chúa ban quyền đặc biệt mới có thể đi trên mặt nước (như Êlia, Êlisê, phần Môisê thì cho nước biển tách đôi).
Như thế, chuyện này mặc khải rằng Chúa Giêsu là Êlia mới, Êlisê và Môisê mới. Ngài có uy quyền của Thiên Chúa, Ngài thống trị các sức mạnh của thiên nhiên.
B. Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu để các môn đệ hành trình trên biển một mình lúc trời tối. Khi đó cuồng phong lại nổi lên và biển động mạnh. Các môn đệ hoảng sợ. Chính lúc đó, Ngài đến với họ và nói “chính Thầy đây, đừng sợ”. Nghĩa là Ngài dạy họ một lúc hai điều: con người rất yếu ớt mỏng dòn, con người cần có Chúa che chở.
2. Câu chuyện này tiếp liền theo phép lạ hóa bánh ra nhiều muốn dạy cho các môn đệ biết rằng Chúa Giêsu chẳng những có thể ban lương thực cho dân chúng ăn, mà còn ban sức mạnh tinh thần và sự che chở an toàn cho các môn đệ.
3. Trong Thánh Kinh, câu “Đừng sợ” được nói 365 lần. Tức là đủ để chúng ta nhắc lại mỗi ngày trong suốt một năm.
4. Nhà truyền giáo Moody kể: Ở làng tôi, bên New England, có một truyền thuyết rằng hễ ai giật được bao nhiêu tiếng chuông thì sống được bấy nhiêu tuổi. Khi tôi giật được 70 hay 80 tiếng chuông, tôi sung suớng nghĩ rằng mình sẽ sống đến tuổi đó. Nhưng mấy năm sau tôi vẫn mơ hồ sợ chết. Sự chết và phán xét ám ảnh tôi rất lâu, mãi cho tới khi tôi biết phó thác đời mình trong tay Chúa Giêsu Kitô, như một người con của Chúa. (Góp nhặt).
5. Người nói với họ: "Chính Thầy đây, đừng sợ".
Mọi người vẫn đi qua như không có gì xảy ra. Vài người đứng lại, đứng lại để xem một người bị giựt kinh phong nằm ngay trên đường, trông thật tội nghiệp!
Có người nói: “vắt chanh vào miệng anh ta”; nhưng mọi người vẫn im lặng, không ai động tĩnh gì cả.
Tôi cũng thấy ngại, ngại ánh mắt dòm ngó bao nhiêu người xung quanh. Tôi có cảm giác sợ sợ như thể sắp làm việc gì sai quấy vậy. Tại sao thế? Tôi chợt nhớ lại lời Chúa nói: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” và tôi đã mạnh dạn bước ra vắt chanh vào miệng anh ta.
Tôi cảm thấy thật vui khi nhận ra tác động của Lời Chúa trên tôi, giúp tôi mở lòng ra với người anh em bên tôi.
Lạy Chúa, xin cho con biết yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. (Epphata).
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con thật hạnh phúc vì được Chúa viếng thăm chúng con. Chúa là lẽ sống, là gia nghiệp cuộc đời chúng con. Chúa là người cha đầy quyền năng và cũng đầy lòng nhân ái bao dung. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa. Chúng con xin dâng lên Chúa hiện tại và tương lai với bao buồn vui và hy vọng. Xin Chúa luôn là thành luỹ bảo vệ cuộc đời chúng con.
Lạy Chúa, cuộc đời chúng con vẫn đong đầy những lo âu và sợ hãi. Cuộc đời vẫn còn quá nhiều sự dữ đang hoành hành. Cuộc sống chúng con còn lắm nguy nan. Chúng con cảm thấy mình quá nhỏ bé trước sóng gió của biển đời. Chúng con cảm thấy mình bất lực trước biết bao những biến cố đang xảy ra chung quanh chúng con. Xin Chúa luôn ở cùng chúng con như lời Chúa đã hứa cùng các tông đồ: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Xin cho chúng con được luôn tín thác vào Chúa, nhất là khi gặp những nghịch cảnh thử thách trong cuộc sống. Xin Chúa cũng đến bên chúng con để xua tan bóng tối của nghi nan, vực dậy đức tin còn yếu kém của chúng con, và ban bình an cho chúng con như Chúa đã đến với các tông đồ trong đêm tối hãi hùng.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, giữa phong ba thử thách cuộc đời, xin cho chúng ta luôn tin tưởng vào sự hiện diện quyền năng và yêu thương của Chúa, nhờ đó chúng con sẽ an tâm đi trọn cuộc hành trình và đạt tới bến bờ bình an. Amen.

Thứ Năm, 11 tháng 4, 2013

Quảng đại giúp đỡ

Khi ấy, Chúa Giêsu đi sang bên kia biển Galilêa, cũng gọi là Tibêria. Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật. Chúa Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. Lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái đã gần tới. Chúa Giêsu ngước mắt lên và thấy đám rất đông dân chúng đến với Người. Người hỏi Philipphê: "Ta mua đâu được bánh cho những người này ăn?" Người hỏi như vậy có ý thử ông, vì chính Người đã biết việc Người sắp làm. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". Một trong những môn đệ, tên là Anrê, em ông Simon Phêrô, thưa cùng Người rằng: "Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người". Chúa Giêsu nói: "Cứ bảo người ta ngồi xuống". Nơi đó có nhiều cỏ, người ta ngồi xuống, số đàn ông độ năm ngàn. Bấy giờ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và khi đã tạ ơn, Người phân phát cho các kẻ ngồi ăn, và cá cũng phân phát như thế, ai muốn bao nhiêu tuỳ thích. Khi họ đã no nê, Người bảo các môn đệ: "Hãy thu lấy những miếng còn lại, kẻo phí đi". Họ thu lại mười hai thúng đầy bánh vụn do năm chiếc bánh lúa mạch người ta đã ăn mà còn dư.
Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, người ta đều nói rằng: "Thật ông này là Đấng Tiên tri phải đến trong thế gian". Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt Người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Từ hôm nay sang bài giáo lý thứ hai về Bí tích Thánh Thể, dựa trên đơn vị phép lạ hóa bánh ra nhiều. Bài trích Phúc Âm hôm nay tường thuật phép lạ ấy. Phép lạ này được cả 4 quyển Phúc Âm tường thuật. Nhưng bài tường thuật của Gioan có những chi tiết riêng biệt như sau:
Xác định rõ nơi xảy ra là phía Đông hồ Galilê, tức là vùng đất của lương dân. Tại vùng đất này mà “đám đông dân chúng theo Người”, chứng tỏ lúc này uy tín và ảnh hưởng của Chúa Giêsu đang lên cao.
Nhưng Gioan còn ghi thêm “vì họ đã thấy những phép lạ Người làm” chứng tỏ dân theo Ngài vì lòng vị lợi chứ không phải do đức tin thật.
Các bài trình thuật trong Phúc Âm nhất lãm, các môn đệ nói cho Chúa Giêsu biết dân chúng đói bụng. Còn trong Gioan, chính Chúa Giêsu hỏi các môn đệ làm sao có bánh cho dân ăn.
Trong nhất lãm, Chúa Giêsu bảo các môn đệ phân phát bánh và các cho dân. Còn trong Gioan chính Chúa Giêsu phân phát.
Khác biệt quan trọng nhất là Gioan coi phép lạ này là dấu chỉ giúp người ta hiểu về màu nhiệm bản thân Chúa Giêsu: Ngài chính là Bánh nuôi dưỡng sự sống trường sinh.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Philipphê thưa: "Hai trăm bạc bánh cũng không đủ để mỗi người được một chút". Trước sứ mạng Chúa giao, ai cũng thấy rằng mình không đủ khả năng. Không bao giờ chúng ta ngang tầm để có thể đáp ứng ý muốn của Chúa. Nhưng cũng như Philipphê và các môn đệ xưa, chúng ta cứ bắt đầu rồi Chúa sẽ tiếp tay cho đến hoàn thành. Thực ra, Chúa không đòi ta làm điều ta không thể, Ngài chỉ muốn chúng ta để Ngài hành động trong và qua chúng ta.
2. Đám đông dân chúng ngày nay vẫn còn đói khát: Đói khát lương thực, đói khát áo quần, đói khát thuốc men và sâu xa hơn nữa họ còn đói khát lẽ sống, đói khát chính sự sống thật mà chỉ có Chúa mới ban cho được.
3. Một lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, trong tay chúng con, Chúa là bánh
Trong tay chúng con, Chúa là sự sống.
Xin hãy mở rộng tay chúng con, để ban bánh cho người khác
Xin hãy mở rộng chúng con, để ban sự sống cho người khác.
4. “Ở đây có một bé trai có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng bấy nhiêu thì thấm vào đâu cho từng ấy người”.
Hồi nhỏ, mỗi khi nghe đoạn Phúc Âm này tôi tự hỏi: nếu em bé kia cứ khư khư giữ lấy phần thức ăn ít ỏi của mình thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chợt tôi nghe như có tiếng đáp lại: “Điều ta muốn là tấm lòng quảng đại của con”.
Từ đó trở đi tôi thực sự mới cảm nhận được rằng: nếu tôi trao ban mà còn so đo tính toán thiệt hơn, nếu tôi không trao ban với tấm lòng quảng đại của mình, thì hành vi kia thật là vô nghĩa.
Em bé trong Phúc Âm Gioan hôm nay lại một lần nữa nhắc bản thân mỗi chúng ta về cách trao ban cho người anh em khác.
 Lạy Chúa, xin dạy con biết sống quảng đại. (Epphata).
5. Một cậu bé nghe nói về Chúa, cậu thắc mắc: “Chúa là ai?”
Một hôm cậu quyết định một mình đi tìm Chúa. Với cái túi nhỏ đựng ít bánh và nước ngọt, cậu bé đến một công viên gần nhà. Vừa bước vào công viên cậu đã gặp một bà cụ đang ngồi trên ghế đá. Cụ bà đang say sưa nhìn mấy con chim bồ câu đến nhặt thức ăn. Cậu bé liền đến ngồi bên cạnh bà, rồi mở cặp lấy bánh và nước ngọt ra.
Nhận thấy bà cụ như có vẻ như thiếu ăn, cậu bèn lấy bánh mời bà cụ. Bà cụ vui vẻ đón nhận và mỉm cười với cậu. Sau đó cậu lấy nước ngọt ra và cũng mời bà như thế. Một lần nữa bà lại đón nhận và mỉm cười. Chưa bao giờ cậu bé cảm thấy hân hoan như vậy. Cả buổi chiều hôm đó, bà cháu ngồi bên nhau, chia sẻ từng miếng bánh, từng hớp nước ngọt, mỉm cười với nhau mà không cần phải nói với nhau lời nào.
Chiều đã muộn, sợ cha mẹ sốt ruột, cậu bé đứng lên ra về. Vừa đi được một quãng, cậu lại quay lại bá cổ bà cụ, rồi hôn vào má bà cụ. Cụ bà đáp lại cái hôn ấy bằng một nụ cười đẹp như chưa bao giờ có. Khi cậu bé vừa mở cửa bước vào nhà, người mẹ nhận ra ngay trên gương mặt con mình một niềm vui mà bà chưa từng thấy bao giờ. Bà liền hỏi con:
- Hôm nay con làm gì mà vui thế?
Cậu bé đáp:
- Hôm nay con ăn uống với Chúa.
Người mẹ ngỡ ngàng chưa hiểu gì thì cậu bé nói tiếp:
- Mẹ biết không, con chưa bao giờ thấy ai có nụ cười đẹp bằng nụ cười của Chúa.
Còn bà cụ, với một niềm vui rộn rã trong tâm hồn, bà thong thả trở về nhà. Vừa bước chân vào cửa thì người con út đã nhận ra ngay sự bình thản khác thường trên gương mặt mẹ mình cho nên cậu hỏi ngay:
- Hôm nay mẹ làm gì mà vui thế.
Bà cụ trả lời:
- Mẹ đã ăn bánh với Chúa.
Trước sự ngỡ ngàng của người con, bà giải thích:
- Con biết không. Chúa trẻ hơn là mẹ nghĩ rất nhiều.
6. Một tác giả vô danh đã tưởng tượng ra một câu truyện sau:
Khi Thiên Chúa tạo dựng xong vũ trụ cũng như muôn người muôn vật thì Ngài gọi các sứ thần lại để hỏi xem nên đặt cái bí ẩn của sự sống - tức là cái quí giá nhất trong chương trình sáng tạo của Ngài - ở đâu?
Một sứ thần góp ý: "Nên chôn vùi nó dưới đất"
Một sứ thần khác: "Nên đặt nó dưới đáy biển"
Một vi nữa lại đề nghị: "Đặt nó trên núi cao là thượng sách"
Thế nhưng Thiên Chúa không đồng ý với những giải pháp kể trên. Ngài nói: "Phải làm thế nào để cho bất cứ người nào cũng có được cái bí ẩn của sự sống mới được"
Cuối cùng một sứ thần liền nói: "Nên đặt cái bí ẩn ấy nơi trái tim con người"
Thiên Chúa nhận thấy đó là điều tốt đẹp, Ngài liền đặt cái bí ẩn của sự sống vào trái tim con người. Và từ đó con người luôn thấy mình có một sức sống tuyệt vời hơn hẳn các loài thụ tạo khác.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong giây phút linh thiêng được kết hợp với Chúa. Chúng con xin được thờ lạy và ngợi khen Chúa. Hợp với muôn triều thần thánh trên trời chúng con xin hát khen mừng Chúa, và dâng lời cảm tạ tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng con.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, tình yêu Chúa thật bao la vô bờ. Trái tim Chúa luôn nhạy cảm trước nhu cầu của nhân loại. Năm xưa Chúa đã chạnh lòng thương đoàn lũ bơ vơ, không người chăn dắt. Chúa đã quy tụ họ lại, giảng dạy cho họ và Chúa đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi sống họ.
Lạy Chúa, chỉ với năm chiếc bánh và hai con cá, mà Chúa đã biến hóa nhiều thật nhiều đến nỗi phân phát đầy đủ cho trên năm ngàn người ăn no nê mà vẫn còn dư đầy. Chúa thật là Thiên Chúa, đầy quyền năng và rất mực yêu thương chúng con. Xin Chúa ban cho thế giới chúng con đang sống đầy cứng cỏi và khô cằn tình người được có nhiều tâm hồn quảng đại biết đóng góp phần nhỏ bé của mình, để Chúa lại có thể làm phép lạ hoá bánh ra nhiều hầu giúp đỡ những ai đang đói khát và biết xoa dịu những ai khốn cùng. Amen.

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2013

Tin để được sống đời đời

Khi ấy, ông Gioan nói để làm chứng về Chúa Giêsu rằng: "Đấng từ trên cao mà đến thì vượt trên hết mọi người. Kẻ bởi đất mà ra, thì thuộc về đất và nói những sự thuộc về đất. Đấng từ trời mà đến thì vượt trên hết mọi người. Điều gì Người thấy và nghe, thì Người làm chứng về điều đó. Nhưng lời chứng của Người không ai chấp nhận. Ai chấp nhận lời chứng của Người, thì quả quyết Thiên Chúa là Đấng chân thật. Đấng được Thiên Chúa sai đến thì nói lời của Thiên Chúa, vì được Chúa ban cho thần linh khôn lường. Cha yêu mến Con, nên đã ban mọi sự trong tay Con. Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy".
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
Thiên Chúa trao trách nhiệm cho chính con người: mỗi người phải suy nghĩ và lựa chọn, rồi lãnh trách nhiệm về sự lựa chọn ấy: “Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời. Còn ai không tin vào Con, thì sẽ không được thấy sự sống, nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè nặng trên người ấy”.
B. Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. “Ai tin vào Con thì có sự sống đời đời”.
Nếu có người hỏi tôi: Tại sao bạn tin Chúa?
Hồi nhỏ tôi đã trả lời: Vì ba mẹ bảo tôi phải tin; nếu tin Chúa, tôi sẽ được vào Thiên Đàng đời sau.
Còn bây giờ, tôi đáp: Tôi tin, và tôi biết Chúa yêu tôi. Tôi tin để được Thiên Đàng ngay đời này.
Lạy Chúa, ước gì trong mọi lúc, con luôn biết đáp lại: “Con tin vì con yêu Chúa”. (Epphata).
2. Một cha xứ kia thấy một người mới tin vào Chúa Kitô nhưng lại mắc cái tật là nghiện thuốc lá. Ngài đã khuyên ông ta nên bỏ thuốc vì hút thuốc rất có hại cho sức khoẻ. Thế nhưng ông ta không chỉ nghe để mà nghe. Hơn nữa có lần ông ta còn cãi lại:
- Thánh Kinh không hề cấm hút thuốc.
Thấy vậy cha xứ chỉ biết cầu xin cho ông mà thôi.
Nhưng thật kỳ lạ, sau đó vài tháng thì cha thấy ông bỏ hẳn thuốc lá. Tò mò, ngài hỏi tại sao thì ông trả lời.
- Thưa cha có một đêm kia con chiêm bao thấy Chúa Giêsu đến thăm con. Khi Chúa bước vào nhà thì con đang phì phào thuốc lá. Con mời Chúa vô phòng khách. Trên bàn có gói thuốc lá con vừa mới mua. Chúa Giêsu hỏi con: "Con đang làm gì đó?" Con đáp lại với Chúa rằng: "Dạ con ngồi nghỉ và hút thuốc cho đỡ buồn." Chúa lại hỏi con tiếp: "Sao con không mời ta hút thuốc?" Con vội vã trả lời: "Dạ đâu được! Con hút thì được chứ Chúa hút thì coi sao được!" Chúa ôn tồn bảo con: "Ta là mẫu người để con noi gương bắt chước. Con là môn đệ Ta thì con phải có tâm tình và hành động giống Ta. Nếu con nghĩ Ta không nên hút thuốc, vậy taị sao con lại hút?" Thưa Cha, con đã tỉnh dậy ngay và biết rằng Chúa đã dùng giấc chiêm bao để dạy dỗ con. Bởi đó con đã quyết định bỏ thuốc, không bao giờ con hút thuốc nữa.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng con tin Chúa đang ngự thật trong bí tích Thánh thể. Chúng con tuyên xưng Chúa là Chúa và là vua của lòng trí chúng con.
Lạy Chúa, năm xưa nhờ sự phục sinh của Chúa đã củng cố đức tin nơi các tông đồ, xin Chúa cũng kiện toàn lòng tin nơi chúng con. Một lòng tin còn ngổn ngang trăm chiều những lo toan trần thế. Một lòng tin còn mong manh trước những cám dỗ của ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt. Một lòng tin cần phải được Chúa bổ sức để có thể lướt thắng những cạm bẫy của thế gian. Xin nhờ ơn thánh qua bí tích Thánh Thể nâng đỡ những yếu đuối của chúng con, và giúp chúng con cũng trở thành những tông đồ loan truyền tin vui Chúa phục sinh cho anh em của mình.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, nhờ tin vào Chúa mà các tông đồ dám dùng cái chết để minh chứng cho niềm tin của mình. Nhờ tin vào Chúa mà biết bao thế hệ nam nữ tu sĩ đã và đang dấn thân phục vụ cho những anh em nghèo đói, tật nguyền hay đang bị bỏ rơi. Xin Chúa cũng giúp chúng con nhờ tin vào Chúa mà biết sống thánh thiện, tránh xa những thói hư tật xấu và sống bác ái yêu thương với hết mọi người. Amen.