I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Anh chị em thân mến
Yêu thương là dấu chỉ cho người ta nhận biết các môn đệ của
Chúa. Vì thế có thể nói khuyết điểm lớn nhất của người tín hữu là không
yêu thương.
Trong Thánh lễ này, mỗi người chúng ta hãy nhớ lại xem có những
người nào mà chúng ta không muốn yêu thương. Hãy dâng những người ấy
lên Chúa, và xin Chúa giúp chúng ta yêu thương họ.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Vì chúng con còn ghét một số người, xin Chúa tha tội chúng con.
- Vì chúng con vui mừng khi thấy những người chúng con ghét phải chịu đau khổ, xin Chúa tha tội chúng con.
- Vì chúng con không cố gắng hòa giải với những người va chạm với chúng con, xin Chúa tha tội chúng con.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc I (Cv 14,21-27)
Mặc dù là những nhà truyền giáo, nhưng Phaolô và Barnaba không
chỉ lo rao giảng Phúc Âm cho những nơi mới. Thỉnh thoảng hai vị làm một
chuyến thăm mục vụ ở những giáo đoàn cũ. Việc này ngày nay được gọi là
"tái truyền giáo".
Tái truyền giáo của hai vị gồm : (1) Củng cố tinh thần kitô hữu ; (2) Củng cố cơ cấu nhân sự ở những giáo đoàn ấy.
2. Phúc Âm (Ga 13,31-35)
Đoạn Phúc Âm này là một phần của bữa tiệc ly. Có 2 chi tiết đáng lưu ý :
1. Giây phút Giuđa ra đi là tiếng chuông báo hiệu cuộc thương
khó bắt đầu. Chúa Giêsu coi đó là tiếng chuông mở đầu giờ Ngài được tôn
vinh. Không phải đau khổ tự nó là tôn vinh, mà vì qua đau khổ Chúa Giêsu
thực hiện ý muốn của Chúa Cha. Chúa Giêsu lấy làm vinh dự được thực
hiện ý muốn Chúa Cha.
2. Trước lúc bước vào con đường thập giá, Chúa Giêsu trối lại
cho các môn đệ điều răn mới của Ngài : "Chúng con hãy yêu thương nhau… Ở
điểm này mọi người sẽ nhận biết chúng con là môn đệ của Thầy, là chúng
con có lòng yêu thương nhau".
3. Bài đọc II (Kh 21,1-5)
Thị kiến về thành Giêrusalem mới :
- Thành này từ trời xuống
- Là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại
- Trong thành Giêrusalem mới này, sẽ không còn sự chết, tang tóc và khổ đau.
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Yêu thương kiểu mới
Chắc hẳn nhiều người có biết chuyện Thánh nữ Maria Goretti.
Maria Goretti là một thiếu nữ đẹp : Vừa đẹp người vừa đẹp nết. Nhưng gia
đình thì nghèo : Không có nhà riêng để ở, phải ở chung nhà với gia đình
của anh chàng Alexandre. Hàng ngày mẹ và các anh của Goretti ra đồng
làm ruộng, Goretti ở nhà lo việc nội trợ và giữ em. Anh chàng Alexandre
từ lâu đã đem lòng yêu cô gái Goretti và cũng đã vài lần dụ dỗ Goretti
cùng mình trao đổi những cử chỉ yêu đương, nhưng Goretti luôn từ chối.
Một hôm Alexandre đang làm ruộng ngoài đồng, nhưng biết Goretti ở nhà
một mình nên lấy cớ đau bụng để trở về nhà. Về đến nhà Alexandre giả bộ
nhờ Goretti vào phòng hắn lấy cái áo đứt nút đơm lại giùm. Cô gái ngây
thơ có tính hay giúp đỡ tưởng thật nên đi vào. Alexandre lại một lần nữa
đề nghị chuyện ân ái. Goretti vẫn từ chối. Khi ấy vì đam mê đã làm cho
lý trí mù quáng. Alexandre dùng dao đâm túi bụi 17 nhát vào mình Goretti
và chạy trốn. Sau đó anh của Goretti sinh nghi từ ruộng trở về thấy em
gái mình sắp chết, anh thề sẽ trả thù. Nhưng Goretti tha thiết xin anh
hãy tha cho hắn. Cuối cùng Goretti chết và Alexandre bị cảnh sát bắt
giam. Một đêm kia anh thấy Goretti hiện ra với mình và tặng cho mình
những cánh hoa mầu trắng và mầu đỏ. Từ đó Alexandre ăn năn sửa mình, nên
được khoan hồng trả tự do trước khi hạn tù chấm dứt. Alexandre còn được
vinh dự tham dự lễ phong thánh cho thánh nữ Maria Goretti.
Có thể xem câu chuyện trên là một câu chuyện tình. Nhưng trong
chuyện ấy có hai thứ tình : tình của Alexsndre đối với Goretti là một
thứ tình yêu thấp hèn, : còn tình yêu của Goretti đối với Alexandre là
một thứ tình yêu cao đẹp. Nếu dùng từ ngữ của bài Phúc Âm hôm nay, thì
tình yêu của Alexandre là tình yêu kiểu cũ, còn tình yêu của Foretti là
thứ tình yêu kiểu mới.
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu khuyên bảo chúng ta hãy
yêu thương nhau. Thực ra tình yêu là chuyện vĩnh cửu, kể từ khi có mặt
con người trên trái đất này thì cũng đã có tình yêu. Cho nên nếu Chúa
Giêsu chỉ bảo người ta thương yêu nhau như người ta đã từng yêu thương
nhau từ trước tới giờ thì lời khuyên dạy của Chúa là thừa và vô ích.
Nhưng lời Chúa không thừa, không vô ích, vì Chúa không dạy người ta
thương yêu nhau kiểu cũ, mà là thương yêu nhau kiểu mới.
Thế nào là yêu thương kiểu cũ, và thế nào là yêu thương kiểu mới ?
Tự nhiên là con người biết thương và biết ghét, : thương người
vừa ý mình và ghét kẻ trái ý mình. Đó là yêu thương kiểu cũ. Sách Lêvi
trong bộ Cựu Ước dạy một thứ tình yêu thương cao hơn : đó là đừng thù
oán ai, nhưng hãy yêu thương mọi người như yêu thương chính mình. Đó là
yêu thương kiểu khá mới. Còn trong bài Phúc Âm này, Chúa Giêsu dạy một
tình yêu thương cao hơn nữa : không phải chỉ yêu người như yêu mình, mà
phải yêu người như Chúa đã yêu. Đó là yêu thương kiểu mới nhất.
Kiểu yêu thương mới nhất là yêu người theo kiểu Chúa đã yêu.
Vậy Chúa đã yêu như thế nào ? Có vài chi tiết trong bài phúc âm giúp ta
hiểu rõ hơn cách yêu thương của Chúa :
Chi tiết thứ nhất là câu "Khi Giuđa đi rồi" : Giuđa đi để thực
hiện âm mưu bội phản bán Thầy. Lúc đó lẽ ra Chúa phải chua chát cho tình
nghĩa thầy trò, thế mà là lúc Ngài chan chứa yêu thương.
Chi tiết thứ hai là câu "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn
đệ của Thầy" : nếu không yêu thương thì không phải là môn đệ của Chúa.
Qua những chi tiết trên, ta hiểu được rằng yêu thương như Chúa
đã yêu là yêu thương chính lúc người thường không thể yêu, yêu thương
chính cái điều mà người thường không thể yêu, và yêu thương những người
mà người thường không thể yêu. Hơn nữa người môn đệ Chúa bó buộc phải
yêu thương như thế thì mới xứng đáng là môn đệ Chúa.
Ta hãy trở lại chuyện thánh nữ Maria Goretti. Yêu thương của
Alexandre là yêu thương kiểu cũ, bởi vì Alexandre chỉ yêu thương theo sự
thúc đẩy của bản tính, của tính dục. Khi tình dục không được thỏa mãn
thì quay ra thù ghét và giết chết Goretti. Còn yêu thương kiểu Goretti
là yêu thương kiểu mới : yêu thương chính kẻ giết mình, yêu thương chính
lúc đau đớn sắp chết, yêu thương để tha thứ và để cứu vớt Alexandre.
Chúa muốn chúng ta yêu thương theo kiểu mới đó. Không phải Chúa
chỉ muốn, mà Chúa còn truyền như một giới răn " Thầy ban cho chúng con
một giới răn mới".
Chúng ta sẽ thực hiện giới răn mới ấy ra sao ? có một tác giả
kia khi viết bài suy gẫm về bài phúc âm này, đã đề nghị một số việc như
sau :
là làm hòa với những kẻ ghét mình
là cầu nguyện cho kẻ ghét mình
là làm tươi hồng môi trường sống của mình bằng những việc phục vụ và bằng những lời nói gây đoàn kết yêu thương.
Thiết tưởng đó là những việc rất cụ thể mà chúng ta phải cố
gắng làm để thực hiện tình yêu thương kiểu mới mà Chúa Giêsu truyền dạy
chúng ta trong bài Phúc Âm hôm nay.
2. Như thầy đã yêu
Vào năm 1995, xảy ra một trận động đất lớn chưa từng có ở Kôbê,
nước Nhật, cả một thành phố hầu như đổ xuống thành một đống gạch vụn
khổng lồ. Thiệt hại về người và của không biết cơ man nào mà kể. Các đội
cứu hộ làm việc ngày đêm để lôi ra khỏi những đống gạch vụn vô vàn
người chết, người bị thương.
Trong các tai họa vô cùng khủng khiếp ấy, người ta lại khám phá
ra một câu chuyện hết sức cảm động, mà tiếng vang của nó còn mạnh hơn
cả sức chấn động của cơn động đất.
Người ta kể lại rằng, đến ngày thứ hai của cuộc tìm kiếm nạn
nhân, họ đào lên được dưới tòa nhà đổ nát hai mẹ con vẫn còn sống : Đứa
con nhỏ khoảng mấy tháng tuổi vẫn còn thoi thóp, và người mẹ đã hoàn
toàn bất tỉnh.
Sau khi cấp cứu cho hai mẹ con vượt qua cơn thập tử nhất sinh, các nhà báo đã phỏng vấn người mẹ :
- Làm thế nào mà cả hai mẹ con chị có thể sống được hai ngày dưới đống gạch vụn ấy ?
Chị đáp :
- Tuy bị chôn vùi dưới tòa nhà đổ nát, nhưng có một cái đà đã
che chắn cho mẹ con tôi. Sau vài tiếng đồng hồ thì con tôi quá đói vì
hai bầu sữa của tôi cháu đã uống cạn. Tôi liền mò mẫm trong bóng tối và
đụng phải một vật sắc bén. Tôi liền vồ lấy và rạch một đường nơi cổ tay,
đẩy miệng con tôi vào cho cháu mút giòng máu nóng. Cháu yên lặng được
vài tiếng thì cơn đói lại cào cấu, và cháu lại gào lên khóc. Tôi liền
rạch thêm một đường nữa nơi cổ tay bên kia, đưa vào miệng cháu. Sau đó,
tôi không còn biết gì nữa ?
- Thế chị không nghĩ rằng làm như thế thì chị sẽ chết hay sao ?
- Tôi không hề nghĩ đến cai chết của mình, mà chỉ nghĩ làm cánh nào cho con tôi được sống.
*
Tình yêu hy sinh quên mình, tình yêu hiến dâng mạng sống của
người mẹ dành cho đứa con trong câu chuyện trên đây, là lời minh chứng
hùng hồn cho lời dạy của Đức Kitô trong bài Phúc Âm hôm nay : "Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" (Ga 13,34).
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là cúi xuống rửa chân cho nhau để bày tỏ một tình yêu sâu thẳm, cho dù người ấy là Giuđa, kẻ phản bội tình yêu.
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là hạ mình xuống ngang hàng với người mình yêu để cảm thông, chia sẻ và yêu thương như "Bạn hữu thân tình".
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là "Yêu cho đến cùng", yêu cho đến chết và chết trên thập giá.
Vâng, kể từ khi Con Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại cho đến
cùng, thì luật yêu thương đã trở thành điều răn mới, mới ở đây chính là
yêu "Như Thầy đã yêu".
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta cảm nghiệm sâu xa tình yêu sâu nặng mà Người đã dành cho chúng ta.
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta dám quên mình, "bắt chước" Thầy, cúi xuống trước anh em.
Chúng ta chỉ có thể yêu "Như Thầy đã yêu" khi chúng ta dám xả thân, yêu cùng "mức độ" như Thầy, hiến dâng mạng sống cho anh em.
Như vậy, yêu "Như Thầy đã yêu" không phải là tình yêu
vị kỷ (Eros) yêu người khác nhưng chỉ để lợi dụng, chiếm đoạt cho riêng
mình, vì mình mà thôi ; nhưng chính là tình yêu vị tha (Agapé) sẵn sàng
hiến dâng, hy sinh cho kẻ khác.
Yêu "Như Thầy đã yêu" chính là một dòng chảy không
ngừng. Từ suối nguồn yêu thương của Thiên Chúa tuôn đổ xuống chúng ta,
qua Thánh Thần Tình Yêu của Người, rồi từ con tim tràn đầy yêu thương
của chúng ta, dòng suối tình yêu lại tuôn tràn sang những người anh em
khác.
Nếu tình yêu như một dòng chảy liên kết chúng ta lại với Chúa,
thì chính tình yêu ấy cũng liên kết chúng ta lại với nhau. Và đó cũng
chính là dấu chỉ của môn đệ Đức Kitô : "Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy. Là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35).
3. Yêu thương người ruột thịt
Khi đề cập đến giới luật yêu thương, người ta thường nói tới
việc yêu thương những người tội lỗi, những người nghèo, những kẻ thù
v.v. Thế nhưng có một hạng người cần yêu thương hơn mà na ta hay quên,
đó là chính những người ruột thịt.
Có một người đã viết lên những lời cầu nguyện như thế này :
"Chúa ơi, tình chị em con rộng rãi bao la như chiếc lá me, như cái bánh
cam buổi chiều. Buồn quá Chúa ơi. Giờ này con mới thấy rõ bộ mặt thật
não nề !" Lời cầu nguyện này cũng là một tâm sự, một nhận xét, một thú
nhận thật là chua chát. Có những người theo lẽ tự nhiên thì rất dễ
thương nhau, nhưng trong thực tế thì lại rất ghét nhau. Đó là những
người ruột thịt sống chung với nhau hằng ngày !
Khi còn nhỏ, anh chị em ruộït thịt một nhà sống với ngay thật
là thân thiết yêu thương : ăn chung, chơi chung, đi học chung, ngủ
chung… Cuộc sống thật thoải mái, nhưng tới khi những anh chị em này đã
lớn, mỗi người đã có nghề nghiệp riêng, tiền bạc riêng, quyền lợi riêng,
gia đình riêng thì tình nghĩa lợt lạt dần, có khi còn thù ghét nhau
nữa. Có một người kia thành thật nhìn nhận rằng : "Người mà tôi thù ghét
nhất, đó là… chị tôi !". Đó là một thực tế, thực tế không phải chỉ đối
với một vài người nào đó, mà có lẽ đối với rất nhiều người.
Người ta đã đưa ra nhiều lý do để giải thích cái thực tế phủ
phàng đó, như tại tuổi hai người xung khắc nhau, như tại cha mẹ cư xử
không đồng đều với con cái. v.v. Tuy nhiên, những lý do đó không đúng,
có thể còn mê tín dị đoan nữa. Lý do thật của tình trạng anh chị em ruột
thịt không thương nhau lại thù ghét nhau là : Ganh ghét và thụ động.
Thứ nhất : ganh ghét. Hai anh em trong Thánh Kinh đã thù ghét
nhau là Cain và Abilê. Và lý do thì rõ ràng là ganh ghét : Cain đã ganh
với Abilê vì cậu em này chăm chỉ hơn mình nên làm ăn thành công hơn,
hiếu thảo hơn mình nên được lòng cha mẹ hơn, đạo đức hơn mình nên được
Chúa ban ơn nhiều hơn. Tình trạng bất hoà giữa nhiều anh chị em ruột
thịt cũng cùng một lý do đó. Vì nó học giỏi hơn, vì nó đẹp hơn, vì nó có
tiền hơn, vì nó được người ta thương mến hơn… khiến tôi bực bội khó
chịu và từ đó hay kiếm chuyện gây gỗ. Ganh ghét là lý do chính. Tuy
nhiên cần phải lưu ý đến khía cạnh tâm lý này : bởi vì chúng ta đều biết
ganh ghét là một tính xấu cho nên ít ai chịu nhận mình có tính ganh
ghét cả. Trong khi phân tích tình trạng bất hoà giữa anh chị em, ai ai
cũng dễ dàng và mau mắn nhận rằng anh chị em đã ganh ghét mình, nhưng
rất ít người chịu nhận mình ganh ghét anh chị em.
Lý do thứ hai là thụ động. Thụ động muốn nói đây không có nghĩa
là mình không làm gì cả. Thực tế người ta rất tích cực và làm rất
nhiều, nào là chê bai, nào là chửi bới, nào là nói xấu, nào là phá ngầm…
Thụ động muốn nói đây là không làm gì cả để xây đắp tình yêu thương.
Nói khác đi, mình muốn hưởng mà không chịu làm. Sống chung trong nhà,
mình chỉ lo cho mình chứ không lo cho ai cả rồi khi thấy anh chị em
không giúp đỡ mình, không ủi an mình, không nâng đỡ mình thì mình tức
tối bực bội và kiếm chuyện gây gỗ. Ở đây cũng có một nhận xét này chúng
ta cần lưu ý : là người nào hay quên mình để lo lắng cho anh chị em thì
người đó rất ít thắc mắc, ít đặt vấn đề. Ngược lại kẻ nào chỉ thụ động
chờ anh chị em lo lắng phục vụ mình thì kẻ ấy lại thường khó chịu, cự
nự, gây chuyện nhiều nhất.
Trên đây là hai lý do giải thích tình trạng anh chị em ruột
thịt bất hoà với nhau : một là tính ganh ghét, hai là tính thụ động chỉ
đòi người ta lo cho mình trong khi mình không làm gì cả để xây đắp tình
yêu thương. Thấy được hai lý do đó thì đương nhiên ta thấy được giải
pháp của vấn đề. Làm thế nào để anh chị em ruột thịt thương yêu nhau ?
Thưa ai cũng phải biết nâng đỡ nhau. Tục
ngữ ta có câu "Chị ngã em nâng". Đó là những anh chị em thương yêu nhau
thật sự. Còn những anh chị em không thương yêu nhau thì "Chị ngã, em
dửng dưng đứng nhìn, hoặc tệ hơn nữa chị ngã mà em khoái chí !
Nhưng cụ thể, nâng đỡ như thế nào ?
- Trước hết là nâng đỡ khi thành công. Nhưng khi thành công thì
cần gì nâng đỡ ? Ta dễ nghĩ như vậy. Nhưng thực tế lại không như vậy.
Bởi vì ai trong chúng ta cũng có sẵn tính ganh ghét mặc dù mình không
muốn nhìn nhận. Sự thành công của người khác có thể gợi lên trong ta cái
tính ganh ghét nằm sẵn đó. Cho nên khi anh chị em ta thành công mà ta
biết nâng đỡ bằng cách chia vui, chúc mừng, khích lệ thì đương nhiên là
ta đã loại bỏ không cho tính ganh ghét trỗi dậy.
- Sự nâng đỡ càng cần thiết hơn khi anh chị em mình thất bại.
Người thất bại thì dĩ nhiên phải đau buồn. Đau buồn thì cần người an ủi,
đỡ nâng. Cần mà không gặp thì cô đơn chua xót. Nếu đã không gặp được
nâng đỡ mà lại còn thấy anh chị em vui mừng hỉ hả vì thất bại của mình
thì chẳng những cô đơn chua xót mà còn thêm đắng cay, hận thù. Có một
người lâm vào tình cảnh đắng cay như thế đã than : "Lúc này tôi hoàn
toàn cô độc. Buồn một mình, khổ một mình, khóc một mình. Tôi chỉ thấy có
một vật có thiện cảm với tôi, đó là con chó của tôi. Chỉ có thế thôi".
Cái tâm trạng chán chường cay đắng vì thiếu nâng đỡ ấy dễ đưa người ta
tới chỗ sa sút tinh thần, như có người nhận xét : Ít có người đã tự tử
vì không chịu nỗi những đau đớn thân xác. Nhưng hầu hết các người tự tử
vì không chịu nỗi đau khổ trong tâm hồn. Và có những người trong anh chị
em chúng ta trong lúc buồn nản đã không tự tử phần xác, nhưng đã tự tử
phần hồn. Tự tử phần hồn là gì ? Là sa đọa, là bất cần, là nổi loạn làm
cho gia đình tan nát, làm cho tình nghĩa anh chị em ruột thịt đổ vỡ.
Một vị thánh đã nói "Yêu thương phải bắt đầu từ những người
thân rồi mới lan xa tới những người khác". Những người thân mà chúng ta
đề cập nãy giờ chính là anh chị em ruột thịt của mình.
4. "Cứ dấu này mà người ta nhận biết…"
Người kia trồng một cây ăn trái trong rừng. Thoạt đầu cái cây
này nhỏ xíu, tưởng như mất hút trong khu rừng giữa những cây to lớn.
Nhưng nó hết sức cố gắng vươn lên nên một thời gian sau nó cũng cao và
cũng lớn không thua kém gì các cây khác.
Một hôm ông chủ của nó vào rừng thăm nó. Ông rất ngạc nhiên thấy nó cao lớn như thế. Ông trầm trồ khen ngợi :
- Thật không ngờ mi lớn nhanh như thế. Tuyệt vời quá !
Nhưng cái cây khiêm tốn đáp lại :
- Chưa tuyệt vời đâu thưa ông chủ. Tôi thấy mình còn rất nhiều khuyết điểm. Thân tôi còn nhiều chỗ xù xì, lồi lõm…
- Nhưng những cái đó không quan trọng. Ta chẳng quan tâm. Chỉ có điều này khiến ta chưa vừa lòng.
- Thưa ông chủ, tôi không hiểu. Tôi đã lớn lên, chẳng kém gì những cây thông, cây sồi.
Ông chủ giải thích :
- Nhưng mi không phải là loại cây cần có lá có cành thật lớn.
Mi là cây ăn trái. Trái chính là điểm đặc biệt quý giá nơi mi. Thế mà mi
chưa sinh ra dược trái nào cả !
Người ta sẽ nhận biết cây nào thuộc loại cây ăn trái nếu người
ta thấy nó có trái. Cũng thế, người ta sẽ nhận biết ai là môn đệ Chúa
Giêsu nếu người ta thấy họ yêu thương nhau.
Nhiều kitô hữu cố gắng làm đủ mọi chuyện, chỉ trừ chuyện yêu thương nhau !
Nhìn thấy Mẹ Têrêsa đang chăm sóc cho một người bị ghẻ lở đầy
mình, một nhà báo nói : "Tôi không thể làm được việc đó cho dù có trả
cho tôi một triệu đôla". Mẹ Têrêsa đáp : "Chính tôi cũng không làm nổi
việc ấy với số tiền đó. Nhưng tôi làm vì yêu Chúa" (FM)
5. Sức mạnh của yêu thương
Kể về kinh nghiệm lúc ở trại tập trung Auschwitz, Elie Wiesel
nói : những người cai tù Đức cố gắng làm cho các tù nhân quên hết bà con
và bạn bè, để chỉ nghĩ tới bản thân và chỉ lo cho nhu cầu bản thân mà
thôi. Họ nói rằng đó là cách để sống còn. Nhưng Wiesel thấy ngược lại :
người nào chỉ biết sống cho mình thì cơ may sống sót rất ít, trái lại
người nào còn nghĩ tới gia đình, bạn bè, thân thuộc, hay còn nuôi một lý
tưởng thì cơ may sống sót nhiều hơn. Chính những ý tưởng yêu thương ấy
đã giúp họ sống.
Tính vị kỷ khép cửa lòng ta lại và thu hẹp thế giới của ta,
giam hãm ta. Nó dựng lên những rào cản, thậm chí những bức tường ngăn
cách ta với tha nhân. Điều giải thoát ta khỏi sự giam hãm ấy chính là
tình yêu thương thực sự và sâu đậm của ta đối với người khác.
Tình yêu luôn đòi hỏi chúng ta phải cho đi điều tốt nhất và
tình yêu cũng mang điều tốt nhất lại cho ta. Khi được yêu, ta có được
can đảm và nghị lực phi thường. Khi yêu cũng thế. Nhiều khi tình yêu còn
làm được những điều như phép lạ. Elizabeth Kubler Ross viết : "Tình yêu
là ngọn lửa sưởi ấm cho cõi lòng, tăng cường nghị lực cho tinh thần và
cung cấp niềm đam mê cho cuộc sống".
Nếu không có tình yêu thì người ta sẽ ra sao ? Thưa người ta sẽ sống rất nghèo nàn. Còn người yêu thương thì sống rất phong phú.
Mục đích cuộc đời là gì nếu không phải là yêu ? Tự do không bị
trói buộc trong tính vị kỷ và có khả năng yêu thương tha nhân, đó chính
là sống.
Một bác sĩ đã chứng kiến nhiều người hấp hối cho biết : lúc sắp
chết, người ta không nghĩ đến mình đã đậu được những bằng cấp gì, đã
chiếm được địa vị nào trong xã hội, hay đã kiến được bao nhiêu tiền…
Điều duy nhất những người ấy nghĩ đến, đó là những người họ yêu và những
người yêu họ. (FM)
6. Những loại tình yêu
Ngày nay chúng ta hiểu biết nhiều hơn thời xưa về sự phức tạp
của bản tính loài người, và về những động cơ khác nhau đàng sau những
việc chúng ta làm.
Yêu thương chẳng hạn. Thật không đơn giản, mà có tới ít ra 5 loại :
- Thứ nhất là tình yêu vụ lợi : ta yêu thương người nào đó vì
người đó có lợi cho ta. Nhưng đây không phải là tình yêu mà là vị kỷ.
Tôi yêu điều gì đó nơi bạn chứ tôi không yêu bạn.
- Thứ hai là tình yêu lãng mạn : chúng ta có tình cảm với người
nào đó bởi vì người ấy làm cho mình thích. Đây cũng không phải là tình
yêu mà chỉ là đam mê. Ta tưởng mình yêu người đó nhưng thực chất là ta
yêu chính mình. Thông thường tình yêu lãng mạn không bền vững. Bởi đó
nhiều cặp vợ chồng bị thất bại.
- Thứ ba là tình yêu "dân chủ", dựa trên sự bình đẳng trước
pháp luật. Ta tôn trọng người khác vì họ cũng là công dân như ta. Ta
nhìn nhận những quyền tự do của họ để họ cũng nhìn nhận những quyền tự
do của ta. Sở dĩ ta làm điều gì tốt cho họ là vì để họ cũng làm điều tốt
cho ta.
- Thứ tư là tình yêu nhân bản : đây là yêu người cách chung.
Điểm yếu của loại tình yêu này là trừu tượng chứ ít khi cụ thể : tôi yêu
người, nhưng tôi không gắn bó với người nào cả.
- Thứ năm là tình yêu kitô, nghĩa là yêu như Đức Kitô đã yêu.
Đây là tình yêu vô vụ lợi, yêu khi chẳng có gì lợi cho mình. Tình yêu
này tồn tại vững bền bất chấp thù nghịch và bắt bớ. Tình yêu này thể
hiện qua phục vụ và hy sinh. Chúng ta chỉ có thể yêu đến mức độ thứ năm
này nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần.
Ta thường hiểu yêu theo nghĩa thụ động hơn là chủ động. Nói
cách khác, ta mong "được người yêu" hơn là "yêu người". Vì nghĩ thế nên
ta dồn mọi cố gắng để thành công, để giàu có, để có sức quyến rũ… Kết
quả là chẳng được tình yêu thực sự nào cả, vì người khác chỉ yêu cái
thành công, cái giàu có và cái quyến rũ của ta chứ không phải yêu ta.
Trái lại nếu ta "yêu người" thì người sẽ yêu ta vì chính con người của
ta.
Có 3 tình trạng yêu thương : (1) Không yêu và không được yêu :
tình trạng này giống như hỏa ngục ngay ở đời này ; (2) Yêu mà không được
yêu lại : tình trạng này tuy đau khổ nhưng khá hơn tình trạng thứ
nhất ; (3) Yêu và được yêu : đây chính là tình trạng hạnh phúc của Chúa
Giêsu :"Như Cha Thầy đã yêu thương Thầy, Thầy cũng yêu thương các con".
Tình yêu là một sự chọn lựa, vì không ai ép được tình yêu.
Nhưng từ chối không yêu tức là bắt đầu chết. Điều tồi tệ nhất trong các
điều tồi tệ là một cuộc sống lạnh lẽo vô tình. (FM)
7. Chuyện minh họa
Có hai anh em nhà kia : người anh tên Stephen 12 tuổi có một
chân què ; người em tên Mark 10 tuổi cả hai chân đều mạnh khoẻ. Nhiều
khi Stephen ganh tị với em, thậm chí còn muốn em mình què còn mình thì
đủ hai chân mạnh khoẻ.
Một đêm kia Stephen nằm mơ thấy mình lạc vào một khu rừng và
gặp một bà phù thuỷ. Bà này ban cho cậu một điều ước, ước gì được nấy.
Stephen chẳng chút do dự ước ngay : "Ước gì tôi có đôi chân mạnh khoẻ".
Bà phù thuỷ liền mang Stephan từ khu rừng trở lại nhà cậu. Khi ấy Mark
em cậu đang ngủ. Bà phù thuỷ giở tấm mền của Mark ra. Stephen hỏi :
- Bà làm gì thế ?
Phù thuỷ đáp :
- Ta sắp giải phẫu, lấy đôi chân của em cậu sang cho cậu và rồi lấy đôi chân của cậu cho nó.
- Không thể được.
- Có sao đâu, khi tỉnh dậy em cậu sẽ chẳng biết gì hết. Nó cứ tưởng là từ trước tới nay nó vẫn có một chiếc chân què.
Stephen thoáng nghĩ đến tương lai. Cậu thấy mình chạy giỡn
thoải mái với đôi chân lành. Cậu rất sung sướng. Nhưng khi nhìn lại phía
sau thì thấy Mark khổ sở chạy theo với một cái chân khập khiễng thì Cậu
không chịu được. Khi ấy cậu nói với bà phù thuỷ : "Tôi không muốn có
đôi chân lành lặn nữa."
Giật mình thức dậy, Stephan nhìn xuống đôi chân của mình, rồi
nhìn sang đôi chân của em. Thấy mọi sự vẫn như cũ, cậu mỉm cười sung
sướng. Từ đó trở đi, không khi nào cậu còn ganh tị với em nữa.
Stephan muốn sung sướng, nhưng không phải bằng cái giá là sự
đau khổ của em mình. Hạnh phúc thật chỉ được xây dựng bằng một tình yêu
không vị kỷ. Yêu thương ai là dặt người ấy lên hàng đầu. (FM)