Thứ Hai, 31 tháng 3, 2014

Chữa lành

Hôm đó là ngày lễ của người Do Thái, Chúa Giêsu lên Giêru-salem. Tại Giêrusalem, gần cửa "Chiên", có một cái hồ, tiếng Do Thái gọi là Bếtsaiđa, chung quanh có năm hành lang. Trong các hành lang này, có rất nhiều người đau yếu, mù loà, què quặt, bất toại nằm la liệt. Trong số đó, có một người nằm đau liệt đã ba mươi tám năm. Khi Chúa Giêsu thấy người ấy nằm đó và biết anh đã đau từ lâu, liền hỏi: "Anh muốn được lành bệnh không?" Người đó thưa: "Thưa Ngài, tôi không được ai đem xuống hồ, mỗi khi nước động. Khi tôi lết tới, thì có người xuống trước tôi rồi". Chúa Giêsu nói: "Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về". Tức khắc người ấy được lành bệnh. Anh ta vác chõng và đi. Nhưng hôm đó lại là ngày Sabbat, nên người Do Thái bảo người vừa được khỏi bệnh rằng: "Hôm nay là ngày Sabbat, anh không được phép vác chõng". Anh ta trả lời: "Chính người chữa tôi lành bệnh bảo tôi: "Vác chõng mà đi". Họ hỏi: "Ai là người đã bảo anh 'Vác chõng mà đi'?" Nhưng kẻ đã được chữa lành không biết Người là ai, vì Chúa Giêsu đã lánh vào đám đông tụ tập nơi đó. Sau đó, Chúa Giêsu gặp anh ta trong đền thờ, Người nói: "Này, anh đã được lành bệnh, đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn khổ hơn trước". Anh ta đi nói cho người Do Thái biết chính Chúa Giêsu là người đã chữa anh ta lành bệnh.
Vì thế người Do Thái gây sự với Chúa Giêsu, vì Người đã làm như thế trong ngày Sabbat.
Suy niệm: 
A- Phân tích (hạt giống...)
1. Bài đọc: Sách bài đọc Phụng vụ đã tóm tắt thị kiến của ngôn sứ Êdêkiel lại thành một câu Tôi đã thấy nước từ bên phải Đền thờ chảy ra, và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi”.
2. Phúc Âm: Chúa Giêsu chính là nguồn nước cứu rỗi ấy. Người bất toại nằm chờ bên bờ hồ Bếtsaiđa đã 38 năm nhưng chưa có cơ hội xuống hồ để được khỏi bệnh. Chúa Giêsu chỉ cần nói một câu “Anh hãy đứng dậy vác chõng mà về” thì tức khắc anh khỏi bệnh.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Chúa Giêsu thường “la cà” ở những nơi có những người khốn khổ, để chia sẻ với họ, an ủi họ, giúp đỡ họ và nếu họ tin thì cứu chữa họ.
2. “Phép lạ xảy ra cho người bất toại trong bài Phúc Âm hôm nay có thể là hình ảnh của lòng tin cần được thanh luyện. Từ 38 năm qua, con người tàn tật này chờ đợi một phép lạ, nhưng một phép lạ gắn liền với một hiện tượng bên ngoài là nước hồ lay động đã không bao giờ xảy đến. Chỉ khi người tàn tật này gặp gỡ Chúa Giêsu, xưng thú nỗi bất lực của mình và tin ở lời Ngài thì lúc đó phép lạ mới thực sự được thực hiện.” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
3. Tạp chí Âm Vang Lộ Đức (Écho de Lourdes) thuật lại một câu chuyện có thật như sau:
Có một người vô thần có đứa con gái yêu quý bị bệnh bại liệt mà các bác sĩ đều đã chịu bó tay, không tài nào cứu chữa được nữa. Ông nghe những người quen biết đồn rằng Đức Mẹ ở Lộ Đức nước Pháp, có thể chữa lành cho cô bé.
Cuối cùng thì ông cũng đã chấp nhận đưa con gái đến Lộ Đức, nhưng không quên tuyên bố với những người bạn cả Công Giáo lẫn vô thần rằng: “Nếu tôi thấy con gái tôi được chữa khỏi, nếu tôi thấy tỏ tường nó chỗi dậy và đi lại được, tôi sẽ tin rằng Thiên Chúa hiện hữu!
Khi đến Lộ Đức, ông đưa con gái lại gần, chen giữa đám đông những bệnh nhân đang vây quanh chiếc giếng mà Đức Mẹ thường làm phép lạ. Khi gặp được cha Bailly, một Linh Mục thường trực phụ trách tại địa điểm hành hương này, ông đã nói tất cả về nỗi niềm còn bán tín bán nghi của mình vào phép lạ.
Và đúng lúc em bé được đưa xuống chiếc giếng cạn để nhúng ướt hoàn toàn trong nước, cha Bailly đã lớn tiếng nói với mọi người đang có mặt: “Có ai trong các vị hiện diện ở đây bằng lòng tận hiến chính mình làm hy tế cho Thiên Chúa Nhân Lành để cầu nguyện cho một người vô thần không? Có ai không? Chỉ một người thôi, bằng lòng cam chịu cơn bệnh nan y cho tới chết để cho cô bé này được lành, và để cho người cha vô thần này được trở lại đạo không?
Mọi người yên lặng... Mấy phút trôi qua... Chợt có một nữ bệnh nhân trung niên chống nạng hai bên nách khó nhọc bước ra khỏi đám đông và nói nhỏ nhẹ thật khiêm tốn: “Vâng, có tôi, tôi xin tự nguyện!
Ngay lúc ấy, bé gái liền được khỏi bệnh và tự mình bước ra khỏi miệng giếng. Người cha vô thần vội quỳ xụp xuống, thổn thức: “Lạy Chúa, xin Chúa tha tội cho con, con tin rồi!
4. Một đức tin nhỏ sẽ đưa linh hồn bạn vào thiên đàng, một đức tin lớn sẽ đưa thiên đàng vào linh hồn bạn. (H. Spurgeon)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, với tấm bánh đơn sơ nhỏ bé, Chúa đã trao hiến thân mình nên nguồn sống cho cuộc đời chúng con. Chúng con xin tạ ơn, chúc tụng và ngợi khen tình yêu của Chúa đã dành cho chúng con.
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã mang lấy thân phận giống như chúng con. Chúa đã hiểu được nỗi đau của bệnh tật. Chúa đã thấu hiểu được nỗi chua cay của sự bị khinh chê, khước từ. Suốt cuộc đời dương gian, Chúa đã tìm đến những con người bất hạnh, khổ đau đó để thi ân, giáng phúc và khôi phục phẩm giá làm người nơi họ. Hôm nay, Chúa đã nhìn tới thân phận bị bỏ rơi của người bại liệt. Anh đang sống lây lất một kiếp người. Anh đang sống trong tuyệt vọng của cô đơn, khước từ. Chúa đã mang lại cho anh một sức sống mới. “Hãy đứng dạy vác chõng mà về”. Từ nay anh đã có thể đi bằng đôi chân của mình. Từ nay anh có thể tự do sống một kiếp người như bao con người khác.
Lạy Chúa, chúng con xin dâng lên Chúa cuộc đời chúng con. Xin hãy thánh hoá chúng con trong tình yêu của Chúa. Xin đừng để những đam mê tội lỗi làm bại liệt mọi ý chí tốt lành nơi chúng con. Xin giúp chúng con luôn biết tự chủ trong mọi tư tưởng và việc làm của mình theo thánh ý Chúa. Xin cho chúng con luôn sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Amen.

Chủ Nhật, 30 tháng 3, 2014

Lòng tin

Khi ấy, Chúa Giêsu bỏ Samaria mà đến Galilêa. Chính Người đã nói: "Không vị tiên tri nào được kính nể nơi quê hương mình". Khi Người đến Galilêa, dân chúng ra đón tiếp Người: Họ đã chứng kiến tất cả các việc Người làm ở Giêrusalem trong dịp lễ; vì họ cũng đi dự lễ. Người trở lại Cana xứ Galilêa, nơi Người đã biến nước thành rượu. Bấy giờ có một quan chức nhà vua ở Capharnaum có người con trai đang đau liệt. Được tin Chúa Giêsu đã bỏ Giuđêa đến Galilêa, ông đến tìm Người và xin Người xuống chữa con ông sắp chết. Chúa Giêsu bảo ông: "Nếu các ông không thấy những phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin". Viên quan chức trình lại Người: "Thưa Ngài, xin Ngài xuống trước khi con tôi chết". Chúa Giêsu bảo ông: "Ông hãy về đi, con ông mạnh rồi". Ông tin lời Chúa Giêsu nói và trở về.
Khi xuống đến sườn đồi thì gặp gia nhân đến đón, báo tin cho ông biết con ông đã mạnh. Ông hỏi giờ con ông được khỏi. Họ thưa: "Hôm qua lúc bảy giờ cậu hết sốt". Người cha nhận ra là đúng giờ đó Chúa Giêsu bảo ông: "Con ông mạnh rồi", nên ông và toàn thể gia quyến ông đều tin. Đó là phép lạ thứ hai Chúa Giêsu đã làm khi Người ở Giuđêa về Galilêa.
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc: Tiên Tri Isaia phác họa một bức tranh hạnh phúc thời Messia: “Này Ta tái tạo trời mới đất mới…Từ đây người ta sẽ không còn nghe tiếng khóc và than vãn nữa …sẽ không còn trẻ nhỏ chết yểu, không còn người già chết sớm nữa…”. Dĩ nhiên ta không nên hiểu những hình ảnh này theo nghĩa đen. Chúng chỉ đến hạnh phúc được tham gia sự sống thần linh của Thiên Chúa.
2. Phúc Âm: Chúa Giêsu bắt đầu thực hiện điều mà Tiên Tri Isaia tiên báo. Ngay cả người ngoại đạo như viên sĩ quan triều đình cũng được hưởng hạnh phúc ấy: con trai ông sắp chết nhưng được Chúa cho sống lại. Lý do là vì ông đã tin, một đức tin mạnh đến nổi ông vâng lời Chúa ra về trước khi thấy Ngài chữa bệnh cho con ông. Ông chỉ tin vì nghe mặc dù chưa thấy.
B- Suy gẫm (...Nẩy mầm)
1. Bài trích Phúc Âm theo Thánh Gioan hôm nay trình bày hai cấp độ tin: tin vì thấy và tin vì nghe. Chúa Giêsu muốn người ta tin ở mức độ thứ hai. Chính các tông đồ mãi tới khi Chúa Giêsu sống lại mới đạt tới đức tin như thế khi Tôma tuyên xưng đức tin mà không còn đòi xỏ ngón tay vào các vết thương của Chúa nữa. Khi đó Chúa nói: “Phúc cho kẻ không thấy mà tin”. Trong bài Phúc Âm này, lúc đầu Chúa Giêsu cũng nói “Nếu các ông không thấy các phép lạ và những việc phi thường, hẳn các ông sẽ không tin”. Phần tôi, đức tin của tôi đang ở cấp độ nào? Tôi có tin nhiều điều Chúa nói nhưng tôi chưa thấy hay chưa có dịp kiểm chứng, chẳng hạn: Chúa rất thương tôi, Chúa đang sống bên cạnh tôi, Chúa sẽ nâng đỡ tôi trong những lúc gian truân, hãy hoàn toàn phó thác vào Ngài vì Ngài sẽ che chở tôi …?
2. Một người vô thần rất mê leo núi. Ngày kia trượt chân té ngã lăn từ đỉnh núi xuống. Nhung may thay ông bám được một cánh cây nằn chơ vơ giữa đỉnh cao và vực thẳm. Giữa lúc chỉ còn biết chờ chết, một ý nghĩ chợt đến với ông: Tại sao không gọi Chúa đến cứu giúp. Thế là lấy hết sức lực, người vô thần la lớn: “Lạy Chúa”. Tuy nhiên bốn bề chỉ có thinh lặng và ông chỉ nghe được tiếng dội của lời kêu van. Một lần nữa người vô thần lại kêu xin tha thiết hơn: “Lạy Chúa, nếu quả thật Chúa hiện hữu thì xin hãy cứu con. Con hứa sẽ tin Chúa và dạy cho những người khác cũng tin Chúa”. Sau một hồi lặng thinh, bỗng người vô thần nghe thấy một tiếng vang dây cả vực thẳm và núi cao: “Gặp hoạn nạn thì ai cũng cầu xin như thế”“Không, Lạy Chúa, nghìn lần không. Con không giống như những người khác. Chúa không thấy sao, con bắt đầu tin từ khi nghe thấy tiếng Chúa phán. Nào bây giờ xin Chúa hãy cứu con đi, và con sẽ cao rao danh Chúa cho đến tận cùng trái đất”. Tiếng ấy trả lời: “Được lắm, Ta sẽ cứu ngươi. Vậy ngươi tin thì hãy buông tay ra”. Người vô thần thất vọng hô lên: “Buông tay ra ư, bộ Chúa tưởng tôi điên sao?” (Trích “Món quà Giáng Sinh”).
3. Một câu thường được lặp đi lặp lại trong Phúc Âm Gioan, đó là “tin để sống”. Chúa Giêsu thường kêu gọi người ta tin, bởi vì Ngài muốn cho người ta sống. Ngài đến để cho người ta sống và sống dồi dào. Tin vào lời Ngài chính là lời ban sự sống ấy.
4. Trong vườn, một gốc nho héo úa giữa bao cây xanh tươi mơn mởn. Tưới bao nhiêu phân cũng chẳng thấy khá hơn. Cuối cùng, người chủ đào gốc lên xem, thì thấy có miếng gỗ nằn chắn ngang gốc nho.
Có lẽ đời ta cũng vậy. Nếu không đâm rễ sâu vào lòng đất là Lời Chúa, đời ta cũng sẽ uá tàn.
5. Sự sống thần linh quan trọng hơn sự sống thân xác. tôi có quan tâm sự sống thần linh ấy trong tôi không? Ta múc lấy sự sống thần linh ấy khi đến với Chúa, khi cầu nguyện, khi rước lễ…
6. Một bà đạo đức áy náy vì một vài tật xấu bà đã cố gắng hết sức mà vẫn không chừa được. Bèn đến than thở với Cha linh hướng. Ngài nói: “Con có để ý thấy không, vào mùa đông, lá sồi rụng nhiều, nhưng vẫn còn vài chiếc. Gió đông thổi mạnh nhưng vẫn không làm chúng rụng xuống. Nhưng khi mùa xuân đến, chúng tự động rụng, nhường chỗ cho những lá non nảy lộc. Vậy cái gì làm cho chúng rơi rụng? Thưa đó là sự sống mới lưu chuyển trong thân cây. Với chúng ta cũng vậy. Khi sự sống mới của Đức Kitô nảy nở trong đời sống, ta sẽ mau thăng tiến trên con đường đạo đức”. (Góp nhặt).

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, với đức tin chân thành, chúng con xin được thờ lạy và ngợi khen Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng con qua bí tích Thánh Thể. Xin cho chúng con được lớn lên trong tình yêu và sự che chở của Chúa.
Lạy Chúa, giữa giòng đời đầy sóng gió nghi nan. Đời người luôn chìm đắm trong khó nguy trăm chiều. Từ nơi cao xanh Chúa có nhìn thấy những bất hạnh của con người hay không? Chúa có nghe thấy tiếng than khóc của biết bao cha mẹ đã hết nước mắt vì những đứa con đang chết dần trong tội lỗi, trong đam mê lầm lạc? Chúa có nhìn thấy cảnh bạo lực, cảnh thác loạn đang giết đời tuổi trẻ và gieo tai họa cho nhân thế hôm nay?
Lạy Chúa, với đức tin chân thành của viên quan chức triều đình, Chúa đã chạnh lòng thương để cho con ông được cứu sống. Xin nhận lời các người cha, người mẹ hôm nay đang kêu cầu Chúa cứu chữa, cho những người con luôn biết gìn giữ sự trong sạch trong tâm hồn, và thắng vượt những đam mê tội lỗi. Xin cho các anh, các chị đang rơi vào cạm bẫy của ma quỷ, được giải phóng khỏi tội lỗi để sống trong tự do của con cái Chúa. Xin cho thiếu nhi chúng con luôn biết chuyên chăm học lời Chúa và giáo lý của Chúa để chúng con được củng cố trong đức tin, đức cậy và đức mến, ngõ hầu chúng con luôn sống trung tín với Chúa hôm nay và suốt cuộc đời chúng con. Amen.

Thứ Bảy, 29 tháng 3, 2014

Theo Chúa sẽ tới được ánh sáng

Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: "Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?" Chúa Giêsu đáp: "Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian". Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: "Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa" (chữ Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: "Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?" Có kẻ nói: "Ðúng hắn!" Lại có người bảo: "Không phải, nhưng là một người giống hắn". Còn anh ta thì nói: "Chính tôi đây". Họ hỏi anh: "Làm thế nào mắt anh được sáng?" Anh ta nói: "Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy". Họ lại hỏi: "Ngài ở đâu?" Anh thưa: "Tôi không biết".
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: "Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt". Mấy người biệt phái nói: "Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat". Mấy kẻ khác lại rằng: "Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?" Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: "Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?" Anh đáp: "Ðó là một tiên tri".
Nhưng người Do-thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: "Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?" Cha mẹ y thưa rằng: "Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy". Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: "Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó".
Lúc ấy người Do-thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: "Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi". Anh ta trả lời: "Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy". Họ hỏi anh: "Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?" Anh thưa: "Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?" Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: "Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến". Anh đáp: "Ðó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì". Họ bảo anh ta: "Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?" Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: "Anh có tin Con Thiên Chúa không?" Anh thưa: "Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?" Chúa Giêsu đáp: "Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh". Anh ta liền nói: "Lạy Ngài, tôi tin", và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: "Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù". Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: "Thế ra chúng tôi mù cả ư?" Chúa Giêsu đáp: "Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói "Chúng tôi xem thấy", nên tội các ngươi vẫn còn".
Suy niệm: 
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc Cựu Ước: Thiên Chúa soi sáng cho Ông Samuel chọn xức dầu phong vương cho Đavít.
- Bài Tin Mừng: Đức Giêsu chữa một người mù bẩm sinh.
- Bài đọc Tân Ước: "Xưa anh em đã từng là bóng tối, nhưng bây giờ, nhờ kết hợp với Chúa, anh em lại là ánh sáng. Vậy anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng".
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Mỗi sáng thức dậy, chúng ta mở mắt ra, chúng ta nhìn cuộc đời, nhìn những việc sẽ phải làm trong ngày, nhìn những người chung quanh… Nhưng có khi nào chúng ta nhìn tất cả những điều ấy bằng ánh sáng của Chúa không? Nếu nhìn bằng ánh sáng của Chúa, chúng ta sẽ thấy mọi sự một cách rất tuyệt vời như anh mù được Đức Giêsu chữa sáng mắt trong bài Tin Mừng hôm nay.
Ước gì sau Thánh lễ này, mắt chúng ta cũng được mở ra để thấy mọi sự theo một cái nhìn mới.
II. GỢI Ý SÁM HỐI
- Nếu trong đời sống chúng ta có những điều gì còn mờ ám, hãy nhận diện chúng và nhìn chúng bằng cặp mắt của Chúa.
- Nếu ánh sáng lương tâm của chúng ta đã quá lu mờ, thì hãy xin Chúa chữa lành.
- Nếu chúng ta cố tình che đậy ánh sáng chân lý, thì hãy sám hối và xin Chúa thứ tha.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc Cựu Ước: 1 Sm 16,1b.6-7.10-13
- Saul là vua đầu tiên của Israel. Nhưng vì Saul nhìn và giải quyết các vụï việc theo quan điểm chính trị và ý riêng hơn là ý Chúa nên Chúa bỏ ông. Chúa bảo Samuel đến nhà ông Giêsê để xức dầu phong một người khác làm vua.
- Giêsê có tất cả 8 con trai. Thoạt đầu Samuel đã muốn xức dầu cho Êliab một người cao lớn khoẻ mạnh. Nhưng Chúa bảo "Không phải người phàm nhìn sao, Thiên Chúa cũng nhìn thế, bởi người phàm chỉ trông thấy điều lộ trước mắt, còn Yavê trông thấy điều ẩn đáy lòng" (c 7). Cuối cùng, theo sự soi sáng của Chúa, Samuel đã chọn xức dầu cho Đavít, đứa nhỏ nhất, đứa mà Giêsê coi thường nên ban đầu không đưa ra.
- Câu chuyện cho thấy ý nghĩa chính: cái nhìn của Thiên Chúa không giống cái nhìn của loài người, vì loài người quen nhìn vẻ bề ngoài, còn Thiên Chúa nhìn tận đáy lòng.
2. Đáp ca: Tv 22
Thánh vịnh này minh họa ý tưởng "Chúa là Ánh sáng" bằng hình ảnh "Chúa là mục tử": Ngài dẫn dắt chúng ta như mục tử dẫn dắt đoàn chiên. Cho dù có khi Ngài dẫn ta qua những chỗ u tối, khô cằn, gập ghềnh… nhưng nơi đến cuối cùng là suối nước, bóng mát và đồng cỏ.
3. Bài đọc Tân Ước: Ga 9,1-41
Câu chuyện Đức Giêsu chữa một anh mù bẩm sinh. Một số chi tiết đáng lưu ý:
- Đức Giêsu đã làm tới 2 phép lạ: chữa cặp mắt thể xác cho anh này có cái nhìn loài người, và chữa cặp mắt đức tin cho anh này có cái nhìn Thiên Chúa. Cái nhìn thứ hai quan trọng hơn, chính do cái nhìn này mà anh đã quỳ xuống trước mặt Đức Giêsu (cử chỉ tôn thờ: "Người chỉ được tôn thờ một mình Thiên Chúa mà thôi") và tuyên xưng "Lạy Chúa, con tin"; và Gioan viết bài từng thuật này cũng vì muốn trình bày cái nhìn đức tin ấy.
* Bài học: nhìn bằng cặp mắt thể xác là một điều quý, nhưng biết nhìn bằng cặp mắt đức tin mới quan trọng hơn.
- Cái nhìn đức tin của anh thanh niên này sáng từ từ: a/ Bước thứ nhất anh chỉ thấy Đức Giêsu là "một người" tên là Giêsu (c 11); bước thứ hai, anh thấy Ngài là "một vị ngôn sứ" (c 17b); bước cuối cùng, anh nhìn nhận và tuyên xưng "Lạy Chúa, con tin" (c 37).
4. Bài Thánh Thư: Ep 5,8-14
Thánh Phaolô giải thích thế nào là nhìn mọi sự theo ánh sáng đức tin:
- "Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ trong Chúa, anh em là ánh sáng" (c 8)
- "Mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật" (c 9)
- "Anh em hãy nhìn xem điều gì đẹp lòng Chúa" (c 10).
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Con đường đi tới ánh sáng
Con đường đi tới ánh sáng của người mù gồm nhiều bước. Nhưng đáng chú ý là đó không chỉ là những bước đi của con người mà còn là những bước đi của Đức Giêsu: Ngài đi những bước trước, người mù bước theo, và bước sau cùng cũng là của Ngài:
- Bước 1 "Đức Giêsu nhìn thấy" (câu 1): Cuộc hành trình bắt đầu bằng cái nhìn này, cái nhìn của Chúa đi trước cái nhìn của con người.
- Bước 2 "Đức Giêsu thoa vào mắt người mù" (câu 7): sự tiếp xúc giữa Ngài với bệnh nhân chính là thần dược.
- Bước 3 "Ngài bảo: Hãy đi rửa ở hồ Silôê" (câu 7a): Đức Giêsu sai ta đi đến một nơi đã có sẵn từ lâu trước khi ta cần đến nó, và nơi này thực ra chỉ có năng lực cứu chữa nhờ Ngài mà thôi.
- Bước 4 "Người mù đi đến đó" ( (câu 7b): Bước đầu tiên của con người là sự vâng phục và phó thác. Đây là bước rất cần thiết.
- Bước 5 "Tôi đã nhìn thấy" (câu 11), "Ngài là một ngôn sứ" (câu 17): Liền theo sau hồng ân nhận được là việc làm chứng cho Đấng mà ta tin, cho dù việc này dẫn đến cái giá phải trả là bị đuổi ra ngoài (câu 34).
- Bước 6 "Đức Giêsu đến gặp anh" (câu 35): Đến đây Đức Giêsu ban cho anh một thị giác còn quý hơn thị giác của cặp mắt anh, đó là thị giác của đức tin: anh tuyên xưng "Lạy Chúa, con tin".
Đó cũng là những bước mà chúng ta phải cùng đi với Đức Giêsu trên cuộc hành trình của chúng ta.
2. Những cái làm cho ta mù
Để thấy rõ, chỉ một đôi mắt sáng chưa đủ, bởi vì không chỉ có mỗi một thứ bệnh mù là mù đôi mắt, mà còn nhiều thứ bệnh mù khác do nhiều nguyên nhân khác:
Tính ích kỷ làm ta mù không thấy nhu cầu của tha nhân
Tính vô cảm làm ta mù không thấy những việc ta đã làm đau lòng tha nhân.
Tính tự phụ làm ta mù không thấy tha nhân cũng có nhân phẩm như mình.
Tính kiêu căng làm ta mù không thấy khuyết điểm của mình.
Những thành kiến làm ta mù không thấy sự thật.
Sự hối hả làm ta mù không thấy vẻ đẹp của vũ trụ chung quanh.
Khuynh hướng duy vật làm ta mù không thấy những giá trị thiêng liêng.
Sự hời hợt làm ta mù không thấy giá trị thật của con người và khiến ta hay lên án.
3. Những thứ thị giác
"Người phàm chỉ nhìn thấy ngoài mặt, còn Chúa thì thấy tận cõi lòng" (Bài đọc 1): Đối diện với người mù, các môn đệ chỉ thấy đây là một kẻ có tội nên bị phạt; các người pharisêu tìm đủ mọi ngõ ngách để trốn thoát khỏi phải nhìn nhận sự thật về người mù; dân chúng thì không thể tin nổi sự việc mà họ vừa nhìn thấy. Còn Đức Giêsu, Ngài nhìn thấu cõi lòng của từng hạng người kể trên. Ta hãy tìm hiểu kỹ hơn cái nhìn của Đức Giêsu.
- Một cái nhìn ưu ái: Ngài không nhìn người mù bằng ánh mắt bàng quan, mà nhìn với lòng thương.
- Một cái nhìn không bị che mờ bởi những thành kiến (như các môn đệ), những hoài nghi (như dân chúng), những đố kị (như pharisêu), những định chế xã hội xếp loại giai cấp con người.
- Một cái nhìn phát sinh hiệu quả: Ngài nhìn người mù và làm cho anh được thấy.
Chúng ta cần có cái nhìn của Chúa, như lời Thánh Phaolô trong bài đọc thứ 2: "Anh em hãy xem xét điều gì làm đẹp lòng Thiên Chúa. Đừng cộng tác vào những việc vô ích của con cái bóng tối, nhưng hãy vạch trần những việc ấy ra mới phải".
4. Mảnh suy tư
Cách nay nhiều năm, vào một đêm kia có hiện tượng nguyệt thực toàn phần.
Ai nấy đều bàn tán về nó.
Rất nhiều người đứng ngoài sân chờ nhiều tiếng đồng hồ để cuối cùng được nhìn ngắm nó trong một số phút ngắn ngủi.
Tôi tự hỏi: sao người ta lại quá chú ý đến sự biến mất của mặt trăng mà không chú ý đến sự xuất hiện của nó?
Và tôi nhớ đến một lời của Emerson:
"Người ngu ngạc nhiên trước sự bất thường
Còn người khôn ngạc nhiên trước sự bình thường" (Flor MacCarthy)
5. Chuyện minh họa
a/ Đãng trí
Một học giả kia rất thông thái nhưng cũng rất đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một người bạn. Dù đang cỡi lừa, ông vẫn cứ dán mắt vào quyển sách, tay buông lỏng dây cương. Do đó con lừa sau khi đi một đoạn đường đã quay trở lại chính ngôi nhà của ông. Ông tưởng đó là ngôi nhà của người bạn. Ông nhìn ngôi nhà từ trên xuống dưới, từ trước tới sau, và kết luận: "Ông bạn của ta cẩu thả quá, nhà hư gần sập tới nơi mà không sửa sang gì cả." Vợ ông bước ra tiếp lời: "Ông nhận xét đúng đấy. Nhưng đây là ngôi nhà của chính ông". Nhiều người rất sáng về chuyện người khác, nhưng rất mù về những khuyết điểm của chính mình. (Ernst Wilhelm Nusselein).
b/ Làm sao phân biệt ngày với đêm
Một đạo sư hỏi các môn đệ họ có thể xác định như thế nào cái giây phút mà đêm chấm dứt và ngày bắt đầu.
Một người nói:
- Khi người ta thấy một con vật ở đàng xa, và người ta có thể nói đó là con bò hay con ngựa.
Đạo sư bảo:
- Không phải vậy.
- Khi nhìn một cây ở đàng xa và người ta có thể nói đó là cây mận hay cây xoài.
Đạo sư vẫn bảo:
- Vẫn không phải.
Rồi ông nghiêm nghị nói:
- Khi các ngươi nhìn thẳng vào mặt một người đàn ông và các ngươi có thể nhận ra nơi ông ta một người anh em của mình; khi các ngươi nhìn thẳng vào mặt một người phụ nữ và các ngươi có thể nhận ra nơi bà ta một người chị em của mình. Nếu các ngươi không làm được như vậy thì dù mặt trời có mọc tới đâu cũng vẫn còn là đêm. (Anthony de Mello, "Lời kinh của con ếch")
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Đức Kitô là ánh sáng thế gian. Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Với tâm tình cảm tạ tri ân, chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời nguyện xin tha thiết của chúng ta.
1- Hội Thánh là dấu chỉ ơn cứu độ muôn dân / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa thanh tẩy / và đổi mới Hội Thánh trong những ngày hồng phúc này / để Hội Thánh ngày càng nhiệt thành làm chứng cho Chúa.
2- Y học ngày nay tiến bộ vượt bực / đã diệt trừ hẳn một số bệnh hiểm nghèo / mang lại niềm vui sống cho nhân loại / Thế nhưng tại các nước chậm phát triển / vẫn còn một số người bị mù lòa vì bệnh tật / vì nghèo đói / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho có nhiều người quảng đại / tận tình săn sóc và giúp đỡ những anh chị em kém may mắn ấy.
3- Bệnh đui mù tinh thần còn đáng sợ hơn nữa / vì nó khiến con người trở nên mù quáng / không còn phân biệt phải trái / cũng không còn khả năng nhận ra Chúa hiện diện trong tha nhân nữa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa / chữa các kitô hữu khỏi chứng bệnh hiểm nghèo này.
4- "Thưa Ngài tôi tin" / anh mù mạnh dạn tuyên xứng niềm tin của mình / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cũng biết luôn hiên ngang sống trọn vẹn niềm tin đã lãnh nhận / bằng những việc làm cụ thể trong đời sống thường ngày.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con sống như con cái sự sáng, mà theo Thánh Gioan tông đồ, sống như con cái sự sáng là sống bác ái yêu thương. Vậy xin Chúa ban ơn trợ giúp để chúng con có thể sống trọn tình với Chúa và vẹn nghĩa với anh em. Chúa hằng sống và hiển rị muôn đời.
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúng con ít nhiều đều là những kẻ mù loà:
Đầu óc ngu si khiến con mù loà trước những kỳ công và ân huệ của Chúa (x. Tv 52,1), không nhận ra tình thương và những ơn Chúa ban cho con trong cuộc sống hàng ngày.
Tính kiêu ngạo khiến con mù loà trước sự thật, không nhìn thấy những tội lỗi trong lối sống của chính mình.
Lòng ham mê những giá trị vật chất khiến con mù loà trước những giá trị tinh thần, không nhận ra những nguy hiểm tiềm ẩn đằng sau những hào nhoáng quyến rũ của dịp tội.
Thái độ ích kỷ khiến con mù loà trước những nhu cầu của người khác,không nhận ra Chúa nơi người nghèo khổ và bất hạnh.
Lạy Chúa, xin mở mắt con, xin thương ban cho con ánh sáng của Chúa. Để ánh sáng ấy xua tan mọi bóng tối trong con, nâng con chỗi dậy và dẫn con bước đi trong niềm xác tín vào tình yêu của Chúa. Amen.

Thứ Sáu, 28 tháng 3, 2014

Kiêu ngạo & khiêm nhường

Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những người hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: "Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: 'Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần, và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi'. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực mà nguyện rằng: 'Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội'. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê đã để lại cho hậu thế một câu nói lừng danh “Ta muốn tình yêu chứ không muốn hy lễ”.
2. Bài Phúc Âm: Hai người lên đền thờ cầu nguyện là hai hình ảnh minh họa cho câu nói trên của Hôsê:
‑ Người biệt phái: anh có rất nhiều lễ vật dâng lên Chúa nhưng thiếu tình yêu. Thứ nhất là anh không yêu người khác (“tôi không như các người khác, hay là như tên thu thuế kia”); thứ hai là anh cũng không yêu Chúa: anh giữ luật và làm nhiều việc lành chỉ để chứng tỏ cho Chúa biết anh là người đàng hoàng và do đó Chúa phải yêu thương anh, ban thưởng anh.
- Người thu thuế: anh chẳng có lễ vật gì dâng lên Chúa mà chỉ có tình yêu. Tình yêu của anh không nồng nàn thắm thiết mà chỉ là một tình yêu muộn màn của đứa con tội lỗi quay về với một tấm lòng tan nát, một trái tim đang kêu gọi tình thương xót của Chúa (“Lạy Chúa xin thương xót con là kẻ có tội”)
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
Lời Chúa hôm nay rất dịu dàng, kêu gọi chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Chúa, kêu mời chúng ta dâng lên Ngài những tội lỗi và yếu đuối của chúng ta:
1. Một đêm giáng sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người thì bỗng Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân:
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không?
- Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không?
- Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu. Thánh nhân khẩn khoản thưa.
Chúa Hài Đồng bảo:
- Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta cả những tội lỗi của con nữa.
- Ô lạy Chúa, Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?
- Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.
Nghe thế, thánh nhân bật khóc vì sung sướng. (Trích ”Món quà giáng sinh”)
2. Người Hồi giáo có chuyện sau đây: Ngày kia Đức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem có điều gì tốt đẹp nhất để mang về trời. Sứ thần đáp xuống ngay một chiến  trường nơi máu của các vị anh hùng đang chảy lai láng. Sứ thần thu nhặt một ít máu mang về cho Đức Ala. Nhưng xem ra Đức Ala không hài lòng mấy. Ngài bảo: “Máu đổ ra cho tổ quốc và tôn giáo là một  điều quý giá nhưng vẫn chưa phải là điều tốt đẹp nhất nơi trần gian.”
Sứ thần đành phải giáng thế một lần nữa. Lần này ngài gặp đám tang của một người giàu có nhưng rất quảng đại. Vô số người nghèo đi theo sau quan tài, vừa đi vừa khóc vừa xông hương để tỏ lòng biết ơn đối với vị đại ân nhân. Sứ thần liền thu nhặt hương thơm nang về trời. Lần này Đức Ala mỉm cười đón lấy hương thơm ngào ngạt. Nhưng xem ra Ngài vẫn chưa hài lòng, Ngài nói: “Dĩ nhiên lòng biết ơn là một trong những điều hiếm có và tốt đẹp nơi trần gian. Nhưng Ta nghĩ rằng còn có một cái gì tốt đẹp hơn.”
Lại một lần nữa sứ thần đành phải vâng lệnh. Sau nhiều ngày tìm kiếm khắp 4 phương, một buổi chiều nọ ngồi nghỉ bên vệ đường, Ngài bỗng thấy một người đang khóc sướt mướt. Trước những câu hỏi đầy ngạc nhiên của sứ  thần, người ấy giải thích: “Tôi đã chìu theo cơn cám dỗ mà phạm tội. Giờ đây nước mắt là lương thực hằng ngày của tôi”. Sứ thần giơ tay hứng lấy những giọt nước mắt còn nóng hổi và thẳng cánh bay về trời. Đức Ala chăm chú nhìn những giọt nước mắt rồi mỉm cười nói: “Thế là ngươi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Quả thật dưới trần gian  không có gì tốt đẹp và hữu ích cho bằng lòng sám hối, bởi vì nó có sức canh tân cuộc đời. Một lòng sám hối chân thật có sức biến đổi mùa đông giá rét của lòng người thành mùa xuân ấm áp của tình yêu. (Trích “Món quà Giáng sinh”)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, mùa Chay luôn mời gọi chúng con trở về với Chúa. Trở về để sống trong ân sủng và tình thương của Chúa. Chúa mời gọi chúng con đừng đi vào con đường tội lỗi. Đó là con đường dẫn đến cái chết không chỉ ở đời này mà cả đời sau. Xin giúp chúng con biết thành tâm sám hối tội lỗi của mình, biết dâng lên Chúa quá khứ tội lỗi của chúng con. Xin Chúa hãy mặc cho chúng con chiếc áo ân sủng của Chúa để loại trừ những tính hư nết xấu trong con người cũ chúng con.
Lạy Chúa Giêsu mến, có lẽ Chúa cũng rất đau khổ khi nhìn thấy những gì đang diễn ra trong thế giới quanh con. Một thế giới mà Chúa đã tạo dựng từ ban đầu đều tốt đẹp. Thế mà, ngày nay đang có nguy cơ bị hủy diệt bởi tội lỗi chúng con. Chúa rất buồn vì đời sống thiếu nhân cách, thiếu tình người của nhân loại chúng con. Ngay cả bản thân chúng con, có lẽ Chúa cũng rất buồn vì những lần chúng con đã lạc xa tình Chúa. Chúng con đã buông mình theo những đam mê xác thịt bất chính, chúng con đã để lòng trí mình xuôi theo những tư tưởng, những toan tính tội lỗi. Xin Chúa là Đấng lòng lành vô cùng, xin thương tha thứ cho tội lỗi chúng con.
Lạy Chúa, Chúa là tình yêu, là sự tha thứ và khoan dung. Xin tha thứ cho những yếu đuối của chúng con. Xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen.
 

Thứ Năm, 27 tháng 3, 2014

Giới luật của Chúa

Khi ấy, có người trong nhóm Luật sĩ tiến đến Chúa Giêsu và hỏi Người rằng: "Trong các giới răn, điều nào trọng nhất?" Chúa Giêsu đáp: "Giới răn trọng nhất chính là: 'Hỡi Israel, hãy nghe đây: Thiên Chúa, Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất, và ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức ngươi'. Còn đây là giới răn thứ hai: 'Ngươi hãy yêu mến tha nhân như chính mình ngươi'. Không có giới răn nào trọng hơn hai giới răn đó". Luật sĩ thưa Ngài: "Thưa Thầy, đúng lắm! Thầy dạy phải lẽ khi nói Thiên Chúa là Chúa duy nhất và ngoài Người, chẳng có Chúa nào khác nữa. Mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết sức mình, và yêu tha nhân như chính mình thì hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ vật hy sinh". Thấy người ấy tỏ ý kiến khôn ngoan, Chúa Giêsu bảo: "Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu". Và không ai dám hỏi Người thêm điều gì nữa.
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc 1: Ngôn sứ Hôsê kêu gọi hãy trở về với Chúa và đi theo đường lối của Ngài.
2. Bài trích Phúc Âm: Chúa Giêsu chỉ cho một luật sĩ thấy điều luật quan trọng nhất là yêu mến Chúa; điều thứ hai yêu mến tha nhân.
3. Như thế, trở về với Chúa là trở về với tình yêu. Sống tình yêu đối với Chúa và tha nhân là một cuộc sống tốt đẹp và làm hài lòng Chúa nhất, “hơn mọi lễ vật toàn thiêu và mọi lễ hy sinh.”
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Tội là xa rời tình yêu.
- Tuân giữ mọi giới luật nhưng không yêu thương thì cũng là đi lạc.
- Dâng nhiều lễ vật mà không có tình yêu thì cũng là đi lạc.
- Huống chi trong lòng đang chất chứa giận ghét thù hằn.
2. Trở về với Chúa là trở về với tình yêu. Sự trở về đúng mức phải là:
- Yêu Chúa tới mức độ “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực.”
- Yêu tha nhân tới mức độ “như chính mình.”
3. Lạy Chúa, không nhiều thì ít con đã đi lạc xa tình yêu. Hôm nay con muốn quay về với tình yêu, yêu Chúa và yêu người.
4. “Bác ái là sinh ngữ số một mà thánh Phaolô cho là cao trọng hơn tiếng nói của loài người và của thiên thần, là ngôn ngữ độc nhất sẽ tồn tại trên thiên đàng.” (Đường hy vọng)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu, Thánh Gioan đã diễn tả thật ngắn ngọn về Chúa: Chúa là tình yêu. Vì yêu nhân loại, nên Chúa đã chẳng nề gian lao vất vả. Đau khổ đắng cay. Dầm mưa dãi nắng. Yêu thương và phục vụ là biểu tượng của Chúa. Từ trẻ nhỏ đến cụ già. Từ người giầu đến người nghèo. Từ kẻ quyền thế đến kẻ thấp hèn. Chúa đều thi ân giáng phúc.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, xin cho chúng con mỗi lần được kết hợp với Chúa qua bí tích Thánh Thể là một lần chúng con cũng trở nên giống Chúa hơn. Giống Chúa trong yêu thương, phục vụ. Giống Chúa trong cách nghĩ và cách làm. Xin cho chúng con trong đời sống hằng ngày luôn biết từ bỏ cái tôi ích kỷ để mở rộng tâm hồn đến với tha nhân. Xin cho chúng con không chỉ trao tặng nhau lời nói, ánh mắt cảm thông mà còn cả cuộc sống sẵn sàng phục vụ quên mình. Xin cho chúng con luôn quảng đại, yêu thương và phục vụ tha nhân với tất cả nhiệt tình và khả năng mà Chúa đã ban cho chúng con. Xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng con luôn trung tín với giới luật yêu thương của Chúa là mến Chúa và yêu người.
Lạy Chúa là nguồn mạch tình yêu, xin cho chúng con được tắm mát trong lòng thương xót của Chúa, và xin giúp chúng con cũng biết trao ban tình yêu đó cho anh em. Amen.

Thứ Tư, 26 tháng 3, 2014

Đừng xem xét sự việc theo ý nghĩ của ta

Khi ấy, Chúa Giê-su trừ một quỷ câm. Khi quỷ ra khỏi, người câm liền nói được và dân chúng đều bỡ ngỡ. Nhưng có mấy người trong bọn họ nói rằng: "Ông ta nhờ tướng quỷ Bê-el-giê-bút mà trừ quỷ". Mấy kẻ khác muốn thử Người, nên xin Người một dấu lạ từ trời xuống. Nhưng Người biết ý của họ, liền phán: "Nước nào tự chia rẽ, sẽ diệt vong, và nhà cửa sẽ sụp đổ chồng chất lên nhau. Vậy nếu Sa-tan cũng tự chia rẽ, thì nước nó làm sao đứng vững được? Bởi các ngươi bảo Ta nhờ Bê-el-giê-bút mà trừ quỷ, vậy nếu Ta nhờ Bê-el-giê-bút mà trừ quỷ, thì con cái các ngươi nhờ ai mà trừ? Bởi đó, chính con cái các ngươi sẽ xét xử các ngươi. Nhưng nếu Ta nhờ ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ, ắt là nước Thiên Chúa đã đến giữa các ngươi rồi. "Khi có người khoẻ mạnh và võ trang đầy đủ canh giữ nhà mình, thì của cải người đó được an toàn; nhưng nếu có người mạnh hơn xông đến đánh bại hắn, thì sẽ tước hết khí giới hắn tin tưởng, và làm tiêu tan hết những gì đã tước đoạt. Ai không thuận với Ta là nghịch cùng Ta, và ai không thu góp với Ta là phân tán".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước nói đến sự cứng đầu cứng cổ của dân Israel: Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối cho dân để họ được hạnh phúc. Thế nhưng, họ đã chẳng nghe theo. Thiên Chúa lại sai các ngôn sứ đến nhắc nhở họ. Nhưng họ vẫn không nghe.
2. Thời Chúa Giêsu, thái độ ngoan cố ấy vẫn tiếp tục: khi Chúa Giêsu làm phép lạ trục xuất quỷ câm khỏi người bị nó ám, lẽ ra người ta phải hiểu đó là dấu chỉ rằng Nước Thiên Chúa đã đến. Nhưng những người Biệt Phái lại không muốn hiểu như vậy, họ còn cố tình xuyên tạc rằng Ngài đã dùng thế lực của quỷ vương để trừ quỷ nhỏ. Phúc Âm Mátthêu (x. Mt 12,22-32) coi đây là tội chống lại Thánh Thần và là tội duy nhất không được tha. Bởi vì nếu do yếu đuối hay sai lầm mà phạm tội thì dù tội có nặng hay nhiều đến đâu đi nữa Thiên Chúa vẫn rộng lượng tha thứ. Còn kẻ ngoan cố đã thấy sự thật nhưng cố tình không nhìn nhận, lại còn xuyên tạc cho nên họ không được tha. Nói đúng ra, họ không được tha vì họ không muốn được tha.
B- Suy gẫm (...nẩy mầm)
1. Tội ngoan cố là tuy thấy rõ con đường Chúa chỉ dạy nhưng vẫn cố tình không đi theo, tuy thấy rõ sai lầm của mình nhưng vẫn cố tình không chịu sửa. Người ngoan cố kể như “hết thuốc chữa”. Bởi vậy, Chúa Giêsu nói đó là tội chống Thánh Thần và là tội duy nhất Thiên Chúa không tha. Chúa sẵn sàng tha nếu ta yếu duối, Chúa sẵn sàng tha nếu ta sai lầm. Nhưng Chúa không tha nếu ta ngoan cố.
2. Ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần rất hữu ích và quan trọng. Nhưng có lẽ quan trọng hơn nữa là con người có nghe theo ơn soi sáng đó hay không. Hằng ngày, Chúa Thánh Thần ban cho ta biết bao ơn soi sáng, nhưng ta nghe theo được mấy lần?
3. Nguỵ biện là thấy rõ sự thật nhưng cố ý giải thích sai đi cho hợp với sở thích. Người nguỵ biện tưởng rằng nhờ ngụy biện mình sẽ được sống thoải mái, nhưng thực ra họ tự hại chính mình. Chúa Giêsu đã nói “Sự thật mới giải thoát”.
4. Một cô gái biện hộ cho việc mình đến những nơi giải trí khả nghi: “Tôi nghĩ một người công giáo có thể đi bất cứ đâu”.
Bạn cô đáp:
“Tất nhiên, nhưng lời bạn làm tôi nhớ một chuyện: lần đó, tôi và một số người đến thăm một mỏ than. Một cô gái mặc bộ đồ trắng đẹp. Cô hỏi người hướng dẫn:
- Tôi có thể mặc đồ trắng xuống hầm mỏ không?
- Được, không có gì ngăn cản cô mặc áo trắng xuống đó, nhưng điều đáng ngại là khi trở lại, áo cô không còn trắng nữa." (Góp nhặt)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chúng con xin dâng lời tạ ơn tình thương của Chúa đã dành cho mỗi người chúng con. Cho dù cuộc đời chúng con còn đầy những tội lỗi và lầm lỡ, nhưng Chúa vẫn trao ban cho chúng con biết bao ơn lành hồn và xác. Chúa vẫn tiếp tục nhập thể trong cuộc đời chúng con hằng ngày qua bí tích Thánh Thể, qua cha mẹ, qua mọi người xung quanh để giúp chúng con có một cuộc sống tốt hơn. Xin cho chúng con biết trân trọng những ân ban của Chúa, và khiêm hạ đón nhận trong tâm tình cảm mến tri ân. Xin cho chúng con cũng được trở nên tấm bánh đem lại niềm vui và hạnh phúc cho gia đình và cho mọi người.
Lạy Chúa Giêsu, giữa cuộc đời còn đầy những mâu thuẫn vì sự ghen ghét và kiêu căng đã làm cho cuộc sống chung đã khổ lại càng khổ thêm. Xin tha thứ cho chúng con vì những lần chúng con đã để cho tính tự ái, lòng kiêu ngạo làm chủ đời chúng con. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa sự khiêm tốn để chúng con đừng bao giờ coi mình là người tài giỏi mà coi khinh khả năng của anh em. Xin loại trừ nơi chúng con sự ghen ghét đến độ làm hại tha nhân bằng việc xuyên tạc sự thật, vu khống và bỏ vạ cáo gian anh em. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa sự dịu hiền để chúng con luôn nghĩ tốt và sống tốt với mọi người. Xin Mình và Máu Thánh Chúa biến đổi chúng con nên giống trái tim Chúa để chúng con trao ban niềm vui và hạnh phúc cho những ai đang gặp gỡ và tiếp xúc với chúng con. Amen.

Thứ Ba, 25 tháng 3, 2014

Chu toàn lề luật

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con đừng tưởng Ta đến để huỷ bỏ lề luật hay các tiên tri: Ta không đến để huỷ bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Ta bảo thật các con: Cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm, một phẩy trong bộ luật cũng không bỏ sót, cho đến khi mọi sự hoàn thành. Bởi vậy, ai huỷ bỏ một trong những điều luật nhỏ mọn nhất, và dạy người khác làm như vậy, sẽ kể là người nhỏ nhất trong Nước Trời; trái lại, ai giữ và dạy người ta giữ những điều đó, sẽ được kể là người cao cả trong Nước Trời".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước: Trước khi dân Israel vào Đất hứa, Môsê đọc cho dân nghe các lề luật Chúa. Ông căn dặn dân phải nhớ tuân giữ những điều luật ấy “để được sống và được vào chiếm hữu phần đất (mà Thiên Chúa đã hứa ban).”
2. Bài trích Phúc Âm: Mặc dù Chúa Giêsu đến để thiết lập Luật mới, nhưng Ngài không huỷ bỏ luật cũ: “Ta không đến để huỷ bỏ (luật Môsê), mà để kiện toàn.”
3. Như thế, sứ điệp Lời Chúa hôm nay là bảo chúng ta hãy tuân giữ lề luật, theo tinh thần mới của Phúc Âm.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Lề luật giống như đường rầy giữ cho xe lửa chạy an toàn, hoặc như sợi dây cương giữ cho con ngựa chạy đúng hướng. Bị buộc phải sống và làm trong khuôn khổ của lề luật thì hơi khó chịu đấy. Nhưng ta hãy nghĩ đến lý do và mục đích của luật thì sẽ dễ vâng theo hơn. Hơn nữa ai biết giữ luật vì tình yêu thì tất cả sẽ trở nên nhẹ nhàng. Thánh Augustinô chia sẻ một kinh nghiệm quý giá “Ubi amatur, non laboratur” (khi ta yêu thì ta không cảm thấy nhọc nhằn).
2. Một điều nữa cần làm ngay trong mùa Chay là xét lại cách mình giữ luật: luật Chúa, luật Hội Thánh, luật của cộng đoàn v.v...
3. Về việc giữ luật, ta cũng có thể liên tưởng tới một lời dạy khác của Chúa Giêsu “Ai trung tín trong việc nhỏ thì sẽ trung tín trong việc lớn.” (Lc 161,10)
4. “Vào một ngày thứ Sáu buộc kiêng thịt, có người tín hữu nọ đi ăn quán. Anh biết quán có món cá nhưng trong lòng thì thích ăn thịt. Thế là anh gọi những món cá mà anh biết chủ quán sẽ trả lời là không có. Rồi anh tự nhủ “Lạy Chúa, Chúa biết đấy, con đã làm hết cách để gọi nhiều thứ cá mà chẳng có. Thôi con đành gọi một tô phở tái để ăn trong ngày thứ sáu buộc kiêng thịt vậy”... Nếu không có lòng yêu mến Chúa thật, chúng ta sẽ dễ tạo ra những cách để tự an ủi và chuẩn miễn khỏi phải tuân giữ luật Chúa, hoặc giải thích Lời Chúa theo sở thích riêng.” (Trích "Mỗi ngày một tin vui")

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, trong giây phút linh thiêng được đón tiếp Chúa ngự đến viếng thăm tâm hồn. Chúng con xin dâng lên Chúa lời cảm tạ tri ân và tâm tình ngợi khen để tôn vinh chúc tụng Chúa.
Lạy Chúa, Chúa đã xuống thế làm người để giao hòa trời với đất. Chúa đi vào trần gian để gieo hạt giống nước trời giữa nhân loại chúng con. Chúa loan truyền ơn cứu độ và ban bình an, hạnh phúc cho muôn loài thọ tạo. Hôm nay Chúa mời gọi chúng con hãy bước đi trong đường lối những huấn lệnh của Chúa để chúng con được an vui hạnh phúc ở đời này và cả đời sau. Chúa còn dạy chúng con rằng: ai trung tín trong những việc nhỏ nhất vì lòng yêu mến Chúa sẽ là người lớn nhất trong Nước trời.
Lạy Chúa Giêsu chí ái, từ đời đời Chúa đã nghĩ đến chúng con và yêu thương chúng con bằng tình yêu vô tận. Chúa cũng thấy rõ sự thấp hèn yếu đuối dễ hướng chiều về đường ác của chúng con. Xin Chúa hãy giáo dục sự tự do của chúng con theo chân thiện mỹ. Xin hãy tẩy rửa lòng chúng con khỏi mọi tội ác để chúng con biết nhận ra tình thương của Chúa và đáp lại tình thương của Chúa bằng cách yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Amen.
 

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2014

Tha thứ vì được thứ tha

Khi ấy, Phêrô đến thưa cùng Chúa Giêsu rằng:  “Lạy Thầy, khi anh em xúc phạm đến con, con phải tha thứ cho họ mấy lần?  Có phải đến bảy lần không?”  Chúa Giêsu đáp: “Thầy không bảo con phải tha đến bảy lần, nhưng đến bảy mươi lần bảy. Về vấn đề này thì Nước Trời cũng giống như ông vua kia muốn tính sổ với các đầy tớ. Trước hết, người ta dẫn đến vua một người mắc nợ mười ngàn nén bạc. Người này không có gì trả, nên chủ ra lệnh bán y, vợ con và tất cả tài sản của y để trả hết nợ. Người đầy tớ liền sấp mình dưới chân chủ và van lơn rằng:  ‘Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn và tôi sẽ trả lại cho ngài tất cả.’ Người chủ động lòng thương trả tự do và tha nợ cho y. Khi ra về, tên đầy tớ gặp một người bạn mắc nợ y một trăm bạc. Y tóm lấy, bóp cổ mà nói rằng: ‘Hãy trả nợ cho ta.’ Bấy giờ người bạn sấp mình dưới chân và van lơn rằng:  ‘Xin vui lòng cho tôi khất một kỳ hạn, tôi sẽ trả hết nợ cho anh.’ Y không nghe, bắt người bạn tống giam vào ngục. Cho đến khi trả nợ xong. Các bạn y chứng kiến cảnh tượng đó, rất khổ tâm, họ liền đi thuật với chủ tất cả câu chuyện. Bấy giờ, chủ đòi y đến và bảo rằng: ‘Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết nợ cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta; còn ngươi, sao ngươi không chịu thương bạn ngươi như ta đã thương ngươi?’ Chủ nổi giận, trao y cho lý hình hành hạ, cho đến khi trả hết nợ. Vậy Cha Thầy trên trời cũng xử với các con đúng như thế, nếu mỗi người trong các con không hết long tha thứ cho anh em mình.”
Suy niệm: 
A. Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc Cựu Ước trích lời cầu xin của Adaria. Khi đó dân Do Thái đang bị lưu đày bên Babylon. Họ biết họ đang khổ sở là vì tội họ đã phạm trước kia. Adaria xin Chúa tha tội cho dân. Nhưng hiện nay trong hoàn cảnh bị lưu đày, dân chẳng có lễ vật dâng lên Chúa để đền tội như luật định, cho nên Adaria chỉ biết kêu xin đến tình thương của Chúa: “Lạy Chúa, vì lòng từ bi sung mãn của Chúa, xin làm những việc lạ lùng mà cứu thoát chúng tôi”.
2. Dụ ngôn trong bài trích Phúc Âm cũng nói đến sự tha thứ của Thiên Chúa, nhưng lưu ý vài khía cạnh quan trọng:
- Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ chúng ta cho dù tội chúng ta xúc phạm đến Ngài rất nhiều (như ông quan thiếu nợ ông vua một ngàn nén bạc). Ta không thể nào đền tội cho đủ (ông quan không có gì để trả chỉ biết nài xin. Và ông vua tha chỉ vì “động lòng thương”).
- Nhưng chúng ta cũng phải rộng lòng tha thứ cho anh chị em chúng ta. Nếu không thì Chúa sẽ rút lại sự tha thứ của Ngài đối với chúng ta.
- Dụ ngôn còn khuyên ta chớ ngu dại vì không chịu tha cho anh chị em một trăm đồng bạc để không được Chúa tha cho ta mười ngàn nén bạc và còn phải “trao cho lý hình hành hạ cho đến khi trả hết nợ”.
B. Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Muốn tha thứ thì chỉ nên nghĩ đến tình chứ không nghĩ đến lý, cũng không tính theo lẽ công bằng. Để cầu xin ơn tha thứ cho dân, Adaria không dám kể đến những lễ vật dâng cho Chúa, mà chỉ dám nói “Xin hãy đối xử với chúng con theo lòng nhân hậu và lòng từ bi sung mãn của Chúa”. Ông vua trong dụ ngôn mà bài trích Phúc Âm hôm nay nói đến, tha thứ cũng chỉ vì “động lòng thương”.
2. Sau khi nói đến ông vua phạt người đầy tớ không chịu tha cho bạn mình, Chúa Giêsu kết luận “Cha trên trời cũng sẽ đối xử với các con đúng như thế nếu mỗi người trong các con không hết lòng tha thứ cho anh em mình”. Ta đừng coi đây chỉ là một lời hăm dọa suông, mà hãy coi đây là một sự thật.
3. Một trong những việc cần làm ngay trong Mùa Chay là hãy duyệt lại những mối tương giao của mình với người khác. Nếu thấy có bất hoà, xung khắc hoặc nghịch với ai thì phải lo giải quyết cho xong.
4. Liền sau thế chiến II chấm dứt, Coritanbun với những vết sẹo trên thân thể, tàn tích của những khổ hình Bà phải chịu trong trại tập trung Đức quốc xã, đã đi khắp Âu châu rao giảng sự tha thứ cho những kẻ đã làm hại mình.
Thế nhưng vào một Chúa Nhật nọ, sau khi kêu gọi mọi người hãy tha thứ cho nhau trong một nhà thờ của thành phố Munich, bước ra ngoài Bà bất ngờ đối diện với một khuôn mặt quen thuộc. Đó là dung mạo của người lính đã hành hạ bà và hàng ngàn nữ tù nhân khác trong trại tập trung. Những tiếng than khóc, những cảnh tra tấn, rồi những tiếng kêu trả thù nổi dậy mạnh mẽ trong tâm trí Bà.
Lúc đó người đàn ông tiến lại khiêm tốn đưa tay ra vừa muốn bắt tay bà vừa nói: “Thưa Bà, tôi rất cảm ơn những lời tốt đẹp của Bà kêu gọi sự tha thứ. Xin Bà tha thứ cho tôi”. Bà Coritanbun như chết điếng người, vì trước đây bà đã cầu nguyện và quyết tha thứ thật sự, nhưng giờ đây đối diện với con người cụ thể đã tra tấn mình, bà đứng lặng im, tay không thể nào bắt tay người đến xin bà tha thứ.
Sau này vào năm 1971 khi kể lại biến cố ấy trong tập sách ”Nơi ẩn trốn”, bà đã cho biết ”Trong giây phút thinh lặng đó, tôi đã cố gắng dâng lên Chúa lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa thấy con chưa thể tha thứ cho người đã hành khổ con. Xin Chúa hãy ban cho con những tâm tình của Chúa để con có thể tha thứ như Chúa”. Và chính trong lúc đó Bà đã hiểu rằng con người chỉ có thể tha thứ cho nhau khi nhìn nhận tình yêu thương và sự tha thứ của Thiên Chúa. (Trích ”Món quà giáng sinh”)

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể! Chúng con tin rằng Chúa đang hiện diện trong tâm hồn chúng con. Chúa viếng thăm linh hồn chúng con qua hình bánh đơn sơ bé mọn. Chúa lưu lại trong chúng con bằng ơn thánh qua bí tích Thánh Thể. Chúng con đón Chúa là đón nhận một quà tặng tình yêu vô giá là chính Chúa trở nên lương thực thần linh nuôi dưỡng chúng con. Chúng con xin tri ân và cảm tạ Chúa.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, lời Chúa hôm nay mời gọi chúng con “hãy tha thứ cho nhau như Chúa đã tha thứ cho chúng con”. Tha thứ không phải một lần mà bảy mươi lần bảy, nghĩa là tha thứ mãi mãi”. Như vậy, tha thứ cũng đòi hỏi sự kiên nhẫn, kiên nhẫn để cho người xúc phạm đến chúng con có cơ hội, có thời giờ sửa đổi và làm lại cuộc đời. Chúa bảo chúng còn đừng như ông quan độc ác kia đã đối xử quá khắt khe với những con nợ của mình mà quên rằng Chúa đã từng tha thứ cho ông.
Lạy Chúa, “ai nên khôn mà không dại một lần”, xin cho chúng con nhận ra sự yếu hèn của mình để chúng con cũng biết cảm thông với những lỗi lầm của tha nhân. Xin cho chúng con biết học nơi Chúa sự hiền lành và khiêm nhường để chúng con dám bỏ qua những xúc phạm của anh em và sống hoà thuận với nhau trong yêu mến vị tha. Xin cho chúng con luôn biết dịu hiền trong lời nói hơn là lớn tiếng và thoá mạ lẫn nhau. Xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn trong cách sống hơn là kiêu căng và xa cách anh em.
Xin Mình và Máu Thánh Chúa giúp chúng con biết sống yêu thương và tha thứ như chính Chúa đã nêu gương cho chúng con. Amen.
 

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Không đón nhận

 (Khi Chúa Giêsu đến thành Nadarét, Ngài nói với dân chúng tụ họp trong hội đường rằng): "Quả thật, Ta bảo các ngươi, chẳng có một tiên tri nào được tiếp đón tử tế ở quê hương mình. Ta bảo các ngươi, chắc hẳn trong thời Elia có nhiều bà goá ở Israel, khi trời hạn hán và một nạn đói lớn hoành hành khắp nước suốt ba năm sáu tháng, nhưng Elia không được sai đến với một người nào trong bọn họ, mà chỉ được sai đến với một bà goá ở Sarépta xứ Siđôn thôi. Cũng có nhiều người phong cùi trong Israel thời tiên tri Elisêô, nhưng không một người nào trong bọn họ được chữa lành, mà chỉ có Naaman, người Syria". Vừa nghe đến đó, mọi người trong hội đường đều đầy phẫn nộ. Họ đứng dậy, đẩy Người ra khỏi thành và dẫn Người đến một triền đồi, nơi họ xây thành, để xô Người xuống vực. Nhưng Người tiến qua giữa họ mà đi.
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài đọc I kể chuyện tiên tri Êlisêô chữa bệnh cùi cho Naaman một người ngoại đạo.
2. Bài Phúc Âm cũng nhắc lại câu chuyện trên và còn nhắc thêm chuyện tiên tri Êlia giúp cho một bà góa - cũng ngoại đạo- ở xứ Sarépta khỏi đói trong thời kỳ hạn hán.
3. Như thế, Lời Chúa hôm nay muốn nói rằng Chúa không thiên vị ai, Ngài ban ơn cho tất cả mọi người, cho dù người ngoại nhưng nếu tin vào Chúa thì Ngài cũng ban ơn. Còn kẻ có đạo nhưng không tin thật thì không đáng lãnh nhận ơn Ngài.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Vì kiêu căng, ban đầu, tướng Naaman không chịu đến với một tiên tri xứ Israel nhỏ bé. Cũng vì kiêu căng, ông không chịu đi tắm ở sông Giođan nhỏ bé. Nhưng sau đó, nhờ khiêm tốn nghe theo lời khuyên của những người đầy tớ nên ông đã chịu đến với Êlisêô và đã được khỏi bệnh cùi. Câu chuyện này cho thấy nét tương phản rõ rệt và hậu quả khác nhau giữa kiêu căng và khiêm tốn.
2. Đối với những người đồng hương ở Nadarét, Chúa Giêsu ưu ái nhưng không thiên vị. Ưu ái và thiên vị khác nhau. Vì ưu ái họ nên Chúa chọn Nadarét làm nơi Ngài công bố chương trình cứu rỗi của Ngài, vì ưu ái họ nên Chúa muốn ban cho họ ơn lớn nhất là đức tin. Nhưng Chúa không thiên vị: nếu họ không tin thì Ngài không làm phép lạ cho họ.
3. Có lẽ mãi đến thời nay nhiều người vẫn còn nghĩ cách hẹp hòi là Thiên Chúa chỉ thương những người “có đạo”, còn “kẻ ngoại” thì bị bỏ ra rìa. Thực ra Thiên Chúa là Thiên Chúa của tất cả mọi người. Ngày nay vẫn có những người như bà góa xứ Sarépta và tướng quân Naaman được Chúa thương đến. Còn những người có đạo cũng có thể giống như dân làng Nadarét, bị “Chúa tiến qua giữa họ mà bỏ đi”.
4. Kết thúc không đẹp của câu chuyện Phúc Âm hôm nay là do những người làng Nadarét có thái độ chỉ muốn thu vào mà không biết mở ra. Nói rõ hơn: họ chỉ chờ được ban ơn, không biết mở rộng cõi lòng để tin Chúa Giêsu, cũng không nghĩ đến dân ngoại đàng cần ơn cứu rỗi.

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa yêu thương chúng con, nên Chúa đã hạ mình trong tấm bánh đơn sơ nhỏ bé. Chúa vẫn âm thầm tan biến mình trong cuộc sống của chúng con. Xin giúp chúng con nhận ra một vì Thiên Chúa cao sang dưới tấm bánh đơn hèn. Xin giúp chúng con nhận ra sự quan phòng trợ giúp của Chúa để chúng con biết khiêm tốn đón nhận và tạ ơn về những ân ban của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa vẫn âm thầm ở bên cuộc đời chúng con. Chúa vẫn trợ giúp, chở che cuộc đời chúng con. Chúa quá ẩn mình đến nỗi chúng con không nhận ra sự hiện diện của Chúa. Thế nên, chúng con vẫn huênh hoang về thành tích của mình. Chúng con vẫn tự mãn về công trình của mình. Chúng con quên rằng: “nếu Chúa không xây nhà, thợ nề vất vả cùng bằng uổng công”. Xin Chúa tha thứ cho những thiếu sót của chúng con. Xin giúp chúng con luôn khiêm cung đơn sơ để Chúa được lớn lên trong chúng con, để những việc con làm, lời con nói mà muôn dân sẽ ca ngợi Chúa.
Lạy Chúa hằng yêu thương những ai khiêm cung, và lật đổ những ai kiêu căng tự mãn. Xin giúp chung con biết nép mình trong lòng thương xót của Chúa để được an vui trong sự quan phòng của Chúa. Amen.

Thứ Bảy, 22 tháng 3, 2014

Nước sự sống

Khi ấy, Đức Giê-su đến một thành xứ Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. Ở đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa. Có một người phụ nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức Giê-su nói với người ấy: "Chị cho tôi xin chút nước uống !" Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Sa-ma-ri liền nói: "Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống sao?" Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Sa-ma-ri. Đức Giê-su trả lời: "Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: "Cho tôi chút nước uống", thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống."  Chị ấy nói: "Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống?  Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy." Đức Giê-su trả lời: "Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời."
Người phụ nữ nói với Đức Giê-su: "Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước." Người phụ nữ lại nói: "Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ ... Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa." Đức Giê-su phán: "Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật."  Người phụ nữ thưa: "Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự." Đức Giê-su nói : "Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây."
Có nhiều người Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức Giê-su, vì lời người phụ nữ làm chứng. Vậy, khi đến gặp Người, dân Sa-ma-ri xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giê-su nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian."
Suy niệm: 
Sợi chỉ đỏ:
- Bài đọc Cựu Ước: Vâng lệnh Thiên Chúa, Môsê lấy gậy đập lên tảng đá, và nước đã vọt ra.
- Bài Tin Mừng: Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari: "Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt, mang lại sự sống muôn đời".
- Bài Thánh thư: Thánh Phaolô giải thích "nước" ấy chính là Thánh Thần và tình yêu: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu vào lòng ta, nhờ Thánh Thần Ngài ban cho ta".
I. DẪN VÀO THÁNH LỄ
Hôm nay chúng ta họp nhau lại như dân do thái ngày xưa trong sa mạc. Họ đã trải qua nhiều gian khổ, nhất là cái khổ thiếu nước. Trong sa mạc của cuộc sống ngày nay, chúng ta cũng chịu nhiều gian khổ và cũng cảm thấy khát, khát vì biết bao ước vọng không được thỏa mãn. Lời Chúa hôm nay cho biết Đức Giêsu là nguồn nước hằng sống. Vậy chúng ta hãy đến với Ngài và mở rộng lòng ra để Ngài giải khát cho chúng ta.
II. GỢI Ý BỊ SÁM HỐI
- Như dân do thái ngày xưa trong sa mạc, nhiều khi chúng ta cũng hoài nghi nghĩ rằng Thiên Chúa đã vắng mặt.
- Như dân do thái ngày xưa, nhiều lần chúng ta đã trách móc Thiên Chúa, nhất là khi Ngài không thỏa mãn ước muốn của chúng ta.
- Chúng ta thường khao khát những sự trần gian chứ không biết khao khát những điều thuộc về Thiên Chúa.
III. LỜI CHÚA
1. Bài đọc Cựu Ước (Xh 17,3-7)
Thiên Chúa đã giải phóng dân Israel khỏi ách nô lệ Ai cập bằng những hành động diệu kỳ, nhất là biến cố Thiên Thần vượt qua các gia đình do thái và biến cố vượt qua Biển. Ban đầu dân Israel rất phấn khởi và sùng mộ Thiên Chúa. Nhưng những khổ cực và thiếu thốn trong cuộc hành trình qua sa mạc đã dần dần khiến họ nản lòng: họ thường càu nhàu, đòi trở lại Ai cập, nhiều khi còn nổi loạn. Tuy nhiên Thiên Chúa kiên nhẫn đã dùng chính hoàn cảnh thiếu thốn ấy để giáo dục họ hiểu biết đâu là điều thiết yếu trong cuộc sống.
- Điều thiết yếu thứ nhất là đức tin: Ngài muốn họ tin rằng sự cứu rỗi của họ ở đàng trước chứ không phải ở đàng sau: đàng trước là Đất hứa, đàng sau là ách nô lệ Ai cập. Do đó họ có dám tin cậy vào Ngài để tiến tới phía trước không mặc dù hiện tại họ chỉ thấy toàn khổ cực thiếu thốn. Hay họ thà quay lại đàng sau để sống kiếp nô lệ với cơm thừa canh cặn ở Ai cập.
- Điều thiết yếu thứ hai là đức cậy: từ trước tới nay Thiên Chúa chăm lo cho họ đủ mọi điều: muốn bánh thì có manna, muốn thịt thì có chim cút. Nay Ngài để họ thiếu nước, thế là niềm trông cậy của họ lung lay, họ hỏi một cách thách thức "Có thực có Thiên Chúa hay không?" Sở dĩ họ hỏi vậy là vì họ nghĩ rằng Thiên Chúa là một kẻ có nhiệm vụ lo lắng cho họ. Nói cách khác, họ coi Thiên Chúa như một người đối diện với họ (le vis à vis). Thực ra Thiên Chúa không phải là một người đối diện, dù người đó có quyền lực bao nhiêu đi nữa. Thiên Chúa còn hơn thế nhiều. Bài Tin Mừng hôm nay mạc khải Thiên Chúa thực ra là thế nào.
2. Đáp ca (Tv 94)
Thánh vịnh này nhắc lại cuộc nổi loạn của dân do thái trong sa mạc khi họ thiếu nước. Chỉ vì khó khăn trước mắt, họ đã quên hết biết bao việc kỳ diệu mà Thiên Chúa đã làm cho họ. Thánh vịnh kêu mời con người nhớ lại những ơn lành của Thiên Chúa. Đó chính là những tiếng kêu gọi của Ngài, mỗi người hãy nhận ra và ngoan ngoãn đáp lại.
3. Bài Tin Mừng (Ga 4,5-42)
- Đức Giêsu ban đầu xin người phụ nữ Samaria cho Ngài uống nước, sau đó tự mặc khải Ngài chính là Nước trường sinh "Ai uống nước này sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên đem lại sự sống đời đời".
- Qua lời trên, Đức Giêsu cho biết Thiên Chúa không phải là một kẻ đối diện mà là Đấng muốn ở tận trong con người chúng ta, để làm thành một nguồn nước vọt ra sự sống muôn đời. Ai tin vào Ngài và trông cậy nơi Ngài thì có Ngài ở trong người ấy. Ngài ấy sẽ có một sức sống phong phú chẳng những cho chính bản thân mà còn cho người khác nữa.
- Câu chuyện người phụ nữ Samaria là một thí dụ điển hình: Khi bà đã tin vào Đức Giêsu thì bà trở thành người loan Tin Mừng cho những người khác trong làng. Những người này ban đầu tin vì nghe theo lời chị. Nhưng sau đó trong lòng họ cũng có một nguồn nước sống. Họ nói "Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Ngài thật là Đấng cứu độ trần gian": Đức Kitô đã cự ngụ ngay trong lòng họ.
4. Bài Thánh thư: Rm 5,1-2.5-18
Thánh Phaolô là người đã sống cái cảm nghiệm của người phụ nữ Samaria. Từ khi tin Đức Kitô, ngài đã nói "Không phải tôi sống mà Đức Kitô sống trong tôi". Với Đức Kitô sống trong mình, thánh Phaolô đã trở thành một nguồn nước phong phú cứ muốn vọt ra. Ngài đi khắp nơi loan báo Tin Mừng về Đức Giêsu Kitô. Mặc dù gặp bao gian khổ, Ngài không thể không loan báo Tin Mừng ấy được.
Phaolô diễn tả nguồn nước sống trong con người là:
- Thánh Thần: "Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta" (câu 5).
- Ơn sủng của Thiên Chúa ban nhờ Đức Giêsu: "Ơn sủng nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn (tội lỗi do Adam) biết mấy cho muôn người" (câu 15)
IV. GỢI Ý GIẢNG
1. Những nỗi khát khao
Chúng ta khao khát rất nhiều điều:
- Khao khát chân lý vì cuộc sống nhiều gian dối
- Khao khát tự do trong một xã hội nhiều trói buộc
- Khao khát công bình trong một môi trường đầy dẫy bất công
- Khao khát yêu thương trong cuộc đời nhiều thù hận
- Khao khát hạnh phúc trong cảnh sống bất hạnh
- Khao khát niềm tin giữa cảnh đời nhiều nghi kỵ…
Tất cả những khao khát đó đều là biểu hiện của một khát vọng thâm sâu: "Linh hồn con khao khát Chúa Trời hằng sống".
2. Chiếc vò nước được bỏ lại
"Bên bờ giếng, có một khách bộ hành mỏi mệt dừng chân. Chân lý đã vọt lên từ những lời ông ta nói. Cũng bên bờ giếng đó, người phụ nữ nọ đã để lại cái vò nước của mình, bởi từ nay nó chẳng giúp gì cho chị đón nhận hồng ân Thiên Chúa ban. Cái vò nước bỏ quên đó sẽ mãi mãi nói với chúng ta về một người phụ nữ mà số phận từng bị giam hãm trong đủ thứ công việc hằng ngày, trong những quan hệ chẳng tới đâu với một loạt đời chồng, nay bỗng tìm thấy ý nghĩa cho đời mình qua cuộc gặp gỡ với Đức Giêsu, qua những trao đổi với Người (…)
Như thế, chính qua những chuyện của đời thường như ăn, uống, cuộc sống chung với một người đàn ông, cố gắng quay về với Thiên Chúa… mà con người nghe được tiếng nói của Thánh Thần. Nhưng ở đây và lúc này, Người lại đến như một ân ban qua những bất trắc khôn lường của lời nói, qua thái độ chân thành của các bên đối thoại, qua những khoảnh khắc thinh lặng để cho chân lý lên tiếng nói" (J.Cl. Giroud, được trích dịch bởi Fiches dominicales, năm A, trang 86).
3. Thờ phượng trong thần khí và sự thật
Những người Samari thờ phượng Thiên Chúa trên núi Garizim. Những người do thái thờ phượng Thiên Chúa trên núi Sion. Và hai bên tranh cãi với nhau, thù ghét nhau.
Phải chăng đó là những chuyện đời xưa? Không. Ngày nay vẫn có những người chỉ muốn dự Thánh lễ ở nhà thờ này chứ không phải nhà thờ nọ; và có rất nhiều người chỉ thờ phượng Thiên Chúa trong nhà thờ mà thôi.
Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari: "Đã đến giờ - và chính là lúc này - những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng trong thần khí và sự thật". Thờ phượng "trong thần khí" là thờ phượng theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần; thờ phượng "trong sự thật" là thờ phượng với tâm tình kết hợp với Đức Giêsu, Đấng đã xưng mình là đường, là sự thật và là sự sống.
4. Nước
Nước vô cùng thiết yếu cho sự sống. Không có nhà cửa, áo quần, người ta vẫn có thể sống. Không có ăn, người ta vẫn còn sống một thời gian khá dài. Nhưng không có nước, người ta sẽ chết sau một vài ngày.
Bởi thế, khi nói về Thiên Chúa, Thánh Kinh thích dùng hình ảnh nước: Sách Sáng thế mô tả vườn địa đàng có một con sông tỏa ra 4 nhánh mang nước đi nuôi sống các sinh vật ở 4 phương trời. Tổ tông loài người sống trong khu vườn dồi dào nước ấy đã rất hạnh phúc. Nhưng rồi khi nguyên tổ phạm tội và bị đuổi khỏi vườn địa đàng thì cuộc sống vô cùng vất vả trên đất đai khô cằn sỏi đá. Ngụ ý của tác giả đoạn sách Sáng thế ấy là: khi con người sống trong tình thân với Thiên Chúa thì cũng giống như sống bên nguồn nước tươi mát; còn khi họ tách rời Thiên Chúa thì phải khốn khổ như đang ở trong sa mạc khô cằn. Vì thế sách Khải huyền khi muốn diễn tả hạnh phúc thời cứu độ đã vẽ lên hình ảnh một thành Giêrusalem mới, trong đó cũng có một dòng sông hằng sống, nước sông tưới mát một cây hằng sống làm cho nó trổ sinh hoa quả suốt 12 tháng quanh năm, trái cây cho người ta ăn, và lá cây dùng làm thuốc chữa hết mọi chứng bệnh.
5. Những thứ nước
Người thiếu phụ xứ Samari mặc dù đang ở bên giếng nước nhưng cõi lòng vẫn khát khao. Nàng thèm khát một tình nghĩa đậm đà. Nàng tưởng rằng tình đời sẽ thỏa mãn được cơn khát ấy nên nàng đã lăn xả vào những cuộc phiêu lưu tình ái. Nhưng đã trải qua 5 đời chồng rồi, nay đã là đời chồng thứ 6 mà nàng vẫn còn khát. Chỉ sau khi gặp được Đức Giêsu, trò chuyện với Ngài và được Ngài ban cho thứ nước siêu nhiên là tình nghĩa với Chúa thì nàng mới hết khát. Nàng còn chạy vào làng rủ thêm nhiều người đến với Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống đích thực.
6. Thánh vịnh 42
"Như nai rừng mong mỏi
Tìm về suối nước trong
Hồn con cũng trông mông
Tìm đến Ngài, lạy Chúa"
7. Chuyện minh họa
Ngày xửa ngày xưa có một người ăn mày ngồi bên vệ đường để ăn xin, bên cạnh ông là một túi vải đựng vỏn vẹn vài hạt lúa. Bỗng ông thấy chiếc xe chở Nhà Vua đang đi tới. Ông mừng lắm, tự nhủ rằng thế nào Nhà Vua cũng bố thí nhiều tiền cho ông. Ông chạy ra đón đường
- Muôn tâu bệ hạ, xin dủ lòng thương xót bố thí cho kẻ thần dân nghèo khổ này một ít tiền để sống qua ngày.
Nhà vua xuống xe, đến gần người ăn mày, và nói một câu khiến ông hết sức ngạc nhiên và thất vọng:
- Ông có thể dâng cho hoàng thượng của ông một món quà gì không?
Không cách nào từ chối được, người ăn mày lục lọi trong túi vải một hạt lúa nhỏ nhất đưa cho nhà vua.
Khi nhà vua đi rồi, người ăn mày tiếc rẻ mở túi vải ra đếm lại số hạt lúa của mình. Lạ thay, thay vào chỗ hạt lúa đã cho đi là một hạt vàng sáng lóng lánh, cũng bằng y hạt lúa ấy. Lúc đó người ăn mày vô cùng tiếc rẻ: phải chi mình cho hết những hạt lúa đi thì bây giờ mình đã có một túi đầy những hạt vàng!
Ý nghĩa chuyện này:
- người xin trở thành người cho và người cho trở thành người nhận, như Đức Giêsu và người phụ nữ Samaria vậy.
- chính lúc cho đi là lúc nhận lãnh; chính khi xẻ chia là khi trở nên giàu có.
V. LỜI NGUYỆN CHO MỌI NGƯỜI
Chủ tế: Anh chị em thân mến
Chúa ban cho chúng ta những phương thế tuyệt hảo để chữa lành vết thương tội lỗi trong tâm hồn: đó là ăn chay hãm mình, siêng năng cầu nguyện và chia sẻ cơm áo cho những anh chị em nghèo khổ bất hạnh. Tin tưởng vào ơn Chúa trợ giúp, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện.
1- Nước hằng sống Đức Giêsu ban chính là Mặc Khải / là lời giáo huấn / là Thánh Thần của Ngài / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi thành phần trong Hội Thánh / để nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng / mọi người biết thành tâm trở về cùng Chúa / để đền bù những tháng ngày bội nghĩa vong ân.
2- Hằng năm / ở nhiều nơi trên thế giới / đặc biệt là tại những vùng đang có chiến tranh / đang gặp thiên tai / dù được cứu trợ khẩn cấp / vẫn có một số khá đông người bị chết vì đói khát / vì bệnh tật / do phải uống nước bị ô nhiễm trầm trọng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp hoạn nạn / được giúp đỡ đầy đủ và kịp thời.
3- Chúa đã ban cho người kitô hữu Mùa Chay thánh để đổi mới đời sống / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết mọi tín hữu / biết chuyên tâm cầu nguyện và làm nhiều việc lành phúc đức.
4- Giảm bớt chi tiêu ăn uống / để chia cơm xẻ áo cho những anh chị em đói rách nghèo nàn / là ưu tiên số một của người kitô hữu trong Mùa Chay này / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thực thi bác ái / không những trong việc lớn / mà còn trong những chuyện nhỏ của đời sống hằng ngày.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, Chúa dạy chúng con phải thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật. Xin cho tất cả chúng con biết thờ phượng Chúa cho phải đạo làm con. Chúng con cầu xin…
Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Chúa đã phán: “Ai khát hãy đến cùng Ta và hãy uống; Ai tin nơi Ta, thì từ lòng họ Nước hằng sống sẽ chảy ra như dòng sông” (Ga 7,38). “Ai uống nước Ta cho thì không bao giờ còn khát nữa” (Ga 4, 14).
Giờ đây, Chúa ngự trong con, xin cho Nước hằng sống là các ơn của Chúa Thánh Thần vọt lên trong con. Để từ nay con không còn khát nữa. Con không khát giàu sang, danh vọng hay tiền bạc; và con không chạy theo bất cứ lạc thú nào của thế gian nữa.
Lạy Chúa, như thánh Anselmô, con cầu xin Chúa:
“Xin thương nhìn đến những nỗi khó nhọc và cố gắng của con trong việc đi tìm Chúa, vì nếu không có Chúa, con chẳng làm được gì....Chớ gì con khao khát tìm Chúa, và khi gặp rồi, con lại càng khát khao.Chớ gì con mến yêu gặp Chúa, và khi gặp rồi, con lại càng yêu mến”. Amen.

Thứ Năm, 20 tháng 3, 2014

Viên đá góc

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các thượng tế và các kỳ lão trong dân rằng: "Các ông hãy nghe dụ ngôn này: Có ông chủ nhà kia trồng được một vườn nho. Ông rào dậu chung quanh, đào hầm ép rượu và xây tháp canh; đoạn ông cho tá điền thuê, rồi đi phương xa. Đến mùa nho, ông sai đầy tớ đến nhà tá điền để thu phần hoa lợi. Nhưng những người làm vườn nho bắt các đầy tớ ông: đánh đứa này, giết đứa kia và ném đá đứa khác. Chủ lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước, nhưng họ cũng xử với chúng như vậy. Sau cùng chủ sai chính con trai mình đến với họ, vì nghĩ rằng: Họ sẽ kính nể con trai mình. Nhưng bọn làm vườn vừa thấy con trai ông chủ liền bảo nhau: "Đứa con thừa tự kia rồi: Nào anh em! Chúng ta hãy giết nó đi và chiếm lấy gia tài của nó". Rồi họ bắt cậu, lôi ra khỏi vườn nho mà giết. Vậy khi chủ về, ông sẽ xử trí với bọn họ thế nào? Các ông trả lời: "Ông sẽ tru diệt bọn hung ác đó và sẽ cho người khác thuê vườn nho để cứ mùa nộp phần hoa lợi". Chúa Giêsu phán: "Các ông chưa bao giờ đọc thấy trong Kinh Thánh sao: "'Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc; đó là việc Chúa làm và là việc lạ lùng trước mắt chúng ta'? Bởi vậy, Ta bảo các ông: Nước Thiên Chúa sẽ cất khỏi các ông để trao cho dân tộc khác biết làm cho trổ sinh hoa trái".  Các Thượng tế và biệt phái nghe dụ ngôn đó, thì hiểu Người ám chỉ về mình. Họ liền tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì thiên hạ đều tôn Người là Tiên tri.
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ dân chúng, vì dân chúng cho Người là một ngôn sứ.
1. Bài đọc Cựu Ước kể chuyện tổ phụ Giuse bị các anh ganh ghét nên bán đi cho các lái buôn. Giuse trở thành nô lệ (Phần sau của chuyện Giuse kể tiếp là sau này Giuse lên chức tể tướng nước Ai cập và đã cứu cả gia đình mình khỏi nạn đói).
2. Qua dụ ngôn những thợ vườn nho ác ôn, Chúa Giêsu nói Ngài chính là Giuse mới, bị dân mình giết chết, nhưng lại là Đấng cứu rỗi muôn dân. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Lòng ganh ghét đã khiến các con Giacóp coi đứa em ruột của mình là kẻ thù. Lòng ganh ghét cũng khiến các thượng tế và kỳ lão Do Thái giết chết Đấng Messia mà toàn dân mong đợi bấy lâu nay. Dù chiếc xe đã ngã, nhưng vết xe cũ vẫn luôn có người theo. Tôi có như vậy không?
2. Giuse đã lấy ơn để trả oán. Chúa Giêsu đã lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ Ngài. “Chính viên đá bọn thợ loại ra, đã trở nên viên đá góc”. Xin Chúa giúp ta cách “báo thù” tuyệt vời ấy.
3. Một hoàng đế Trung Hoa muốn chiếm đất của kẻ thù và tiêu diệt họ. Nhưng ít lâu sau, thần dân thấy nhà vua đi lại, ăn uống với kẻ thù trước kia.
- Chẳng phải ngài đã từng nói là sẽ tiêu diệt hết kẻ thù?
- Đúng, ta đã tiêu diệt hết kẻ thù, vì ta đã biến họ thành bạn bè của ta.
4. Cái nhìn của Chúa khác cái nhìn của loài người. Khả năng của Chúa cũng tuyệt vời hơn khả năng loài người. Viên đá mà “những người thợ xây” - tức loài người chúng ta - coi là đồ bỏ đi, thì Thiên Chúa có thể biến thành tảng đá góc tường. Thí dụ viên đá Phêrô đã 3 lấn chối Chúa, viên đá Phaolô và biến cố trên đường Đamát, viên đá Augustinô... Nhiều anh chị em tôi cũng có thể là những viên đá như thế, vậy tôi hãy khoan dung... Ngay cả tôi cũng có thể là như thế, nên tôi hãy trông cậy.

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Bí tích Thánh Thể là dấu chỉ hợp nhất chúng con nên một trong Chúa. Qua bàn tiệc Thánh Thể chúng con cùng được chia sẻ một tấm bánh hằng sống là chính Máu Thịt Chúa. Xin giúp chúng con luôn sống hợp nhất và yêu thương nhau. Xin hàn gắn lại những rạn nứt tình người nơi chúng con bằng lòng nhân hậu và tình thương của Chúa, để nhờ đó chúng con cũng biết sống bao dung và đón nhận nhau trong tình nghĩa anh em một nhà.
Lạy Chúa, lòng ghen ghét đã khiến các con nhà Giacóp coi Giuse, em mình là kẻ thù. Lòng ghen ghét đó cũng khiến cho các kỳ lão Do Thái tìm cách giết Chúa. Lòng ghen ghét đó cũng khiến chúng con xa rời nhau bởi những kết án, nghi kỵ và hiểu lầm. Xin tha thứ vì những lần chúng con ghen ghét anh em nên nói xấu, bỏ vạ cáo gian anh em. Xin tha thứ vì những lần chúng con xúc phạm đến nhau bằng lời nói và hành động đã làm tổn thương đến danh dự của tha nhân.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, Chúa đã lấy cái chết để cứu chuộc cả những người hành hạ Chúa. Xin cho chúng con cũng biết lấy ơn trả oán để xoá bỏ hận thù. Xin dạy chúng con cùng nhau canh tân cuộc đời trong tình thần Phúc Âm, để mỗi người biết đối xử nhân từ với nhau như Chúa đã đối xử nhân từ với chúng con. Amen.

Thứ Tư, 19 tháng 3, 2014

Luật công bằng

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng những người biệt phái rằng: "Có một nhà phú hộ kia vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Lại có một người hành khất tên là Ladarô, nằm bên cổng nhà ông đó, mình đầy ghẻ chốc, ước được những mụn bánh từ bàn ăn rớt xuống để ăn cho đỡ đói, nhưng không ai thèm cho. Những con chó đến liếm ghẻ chốc của người ấy. Nhưng xảy ra là người hành khất đó chết và được các thiên thần đem lên nơi lòng Abraham. Còn nhà phú hộ kia cũng chết và được đem chôn. Trong hoả ngục, phải chịu cực hình, nhà phú hộ ngước mắt lên thì thấy đằng xa có Abraham và Ladarô trong lòng Ngài, liền cất tiếng kêu la rằng: "Lạy Cha Abraham, xin thương xót tôi và sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước để làm mát lưỡi tôi, vì tôi phải quằn quại trong ngọn lửa này. Abraham nói lại: "Hỡi con, suốt đời con, con được toàn sự lành, còn Ladarô gặp toàn sự khốn khổ. Vậy bây giờ Ladarô được an ủi ở chốn này, còn con thì chịu khốn khổ. Vả chăng, giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm, khiến những kẻ muốn tự đây qua đó, không thể qua được, cũng như không thể từ đó qua đây được". Người đó lại nói: "Đã vậy, tôi nài xin cha sai Ladarô đến nhà cha tôi, vì tôi còn năm người anh em nữa, để ông bảo họ, kẻo họ cũng phải sa vào chốn cực hình này". Abraham đáp rằng: "Chúng đã có Môsê và các tiên tri, chúng hãy nghe các Ngài". Người đó thưa: "Không đâu, lạy Cha Abraham! Nhưng nếu có ai trong kẻ chết về với họ, thì ắt họ sẽ hối cải". Nhưng Abraham bảo người ấy: "Nếu chúng không chịu nghe Môsê và các tiên tri, thì cho dù kẻ chết sống lại đi nữa, chúng cũng chẳng chịu nghe đâu".
Suy niệm: 
A- Phân tích (Hạt giống...)
1. Bài trích sách Giêrêmia nói đến hai hạng người: hạng tin tưởng cậy dựa vào những giá trị đời này, và hạng đặt niềm cậy trông nơi Thiên Chúa. Giêrêmia nói khốn cho hạng thứ nhất và phục cho hạng thứ hai.
2. Trong bài trích Phúc Âm, người phú hộ thuộc hạng thứ nhất. Khi ông chết thì những chỗ ông cậy dựa cũng tiêu tan luôn cho nên ông rơi vào cảnh rất khốn khổ. Ladarô là đại biểu của hạng thứ hai nên sau khi chết đã được hưởng hạnh phúc trong vòng tay Thiên Chúa (qua hình ảnh tổ phụ Abraham).
Dụ ngôn này còn muốn gởi một lời nhắn nhủ đến hạng thứ nhất: họ nên sớm thấy sai lầm của họ khi đặt niềm cậy trông vào những giá trị trần thế, để kịp thời quay về trông cậy vào Chúa. Đừng chờ đến khi chết, thấy rõ đâu là chỗ dựa vững chắc rồi mới sám hối, vì tới lúc đó, mọi việc đều không thể đảo ngược được.
B- Suy gẫm (... nẩy mầm)
1. Đã biết tiền bạc, của cải và nói chung những giá trị thế gian là không bền, thế nhưng nhiều người vẫn cứ cậy dựa vào chúng. Đó chính là cái ngu dại của con người. Nếu nói theo từ ngữ của ngôn sứ Giêrêmia trong bài đọc 1, đó chính là cái “khốn nạn” của con người.
2. “Abraham nói lại: giữa các ngươi và chúng tôi đây đã có sẵn một vực thẳm...”: Thiên Chúa không tạo dựng thẳm ngăn cách Ngài với con người. Nhưng chính con người tự đào vực thẳm ấy, bằng nhiều cách:
- Bằng ích kỷ không giúp đỡ một người anh em đang cần giúp trong khi chúng ta có thể giúp (như ông nhà giàu đối với Ladarô).
- Bằng thái độ bỏ Chúa đề hoàn toàn cậy dựa vào những giá trị trần gian.
3. Lạy Thiên Chúa của Abraham, con đã hiểu rằng lòng thương xót kẻ khốn khổ sẽ đặt con bên cạnh Ladarô trong lòng Chúa, trái lại sự ích kỷ sẽ đẩy con xuống vực thẳm chung với người phú hộ. Chúa biết con muốn chọn phía nào rồi, nhưng xin giúp con.
4. “Dửng dưng trước đau khổ của người khác là một tội. Đó là điều Chúa Giêsu muốn nêu bật qua hình ảnh người giàu có trong bài Phúc Âm hôm nay.” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”)
5. Chúa hứa với một bà là Ngài sẽ đến thăm bà vào ngày đó. Bà rất hãnh diện về điều này. Bà cọ rửa, lau chùi, đánh bóng, quét bụi và xếp đặt mọi thứ sẵn sàng. Bà ngồi và đợi Chúa đến.
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Bà vội chạy ra. Vừa đẩy cửa, bà thấy một người ăn xin đứng đó. Bà liền nói: “Không, hôm nay tôi không giúp anh, vì Chúa luôn ở với anh rồi. Tôi đang nóng lòng đợi Chúa đến, không thể giúp anh điều gì”. Bà đuổi anh và đóng cửa lại.
Mấy phút sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở cửa nhanh hơn trước. Thấy gì? Vài người già nghèo nàn. “Rất tiếc, tôi đang đợi Chúa đến. Hôm nay tôi không thể giúp đỡ các ông”. Rồi bà đóng sầm cửa lại.
Một lát sau lại có tiếng gõ cửa. Bà mở và lại thấy một người ăn xin rách rưới. Anh xin ăn và nghỉ qua đêm. “Ồ, hãy để tôi yên. Tôi đang đợi Chúa đến. Tôi không thể tiếp anh”. Người ăn xin ra đi và bà tiếp tục ngồi chờ.
Hàng giờ trôi qua và màn đêm buông xuống, nhưng cũng chẳng thấy dấu hiệu gì của Chúa. Bà băn khoăn không biết Ngài ở đâu.
Cuối cùng, bà đành lên giường nằm chờ. Bà ngủ quên và mơ thấy Chúa đến với bà và nói: “Hôm nay Ta đã đến với con 3 lần và cả 3 lần con đều đuổi Ta.” (Góp nhặt).

Cầu nguyện: 
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể, Chúa là tình yêu. Chúa đã mang tình yêu của mình đến cho thế gian. Chúa yêu nhân loại chúng con. Chúa còn thí mạng sống vì nhân loại chúng con. Trái tim Chúa luôn chạnh lòng thương xót những khổ đau của nhân thế. Xin giúp chúng con biết học nơi Chúa để chúng con cũng biết xót thương nhau.
Lạy Chúa Giêsu mến yêu, chính tình yêu sẽ liên kết chúng con nên một trong Chúa. Chúng con cũng hiểu rằng lòng thương xót kẻ khốn khổ sẽ đặt chúng con bên cạnh Ladarô và trong lòng Chúa. Trái lại sự ích kỷ sẽ đẩy chúng con xuống vực thẳm chung với người phú hộ. Nhưng Chúa ơi! Ví ích kỷ chúng con đã xa rời Chúa và anh em. Chúng con thiếu bác ái, thiếu cảm thông với anh em. Chúng con thiếu tình liên đới chia sẻ của những người anh em con cùng một cha trên trời. Xin tha thứ vì những lần chúng con đã không động lòng trắc ẩn giữa khổ đau của tha nhân. Trái tim chúng con băng giá. Tình yêu chúng con khô khan. Chúng con đã từ khước tiếng gọi thổn thức của con tim. Xin tha thứ vì những lần chúng con lạnh lùng, thờ ơ trước sự kêu cứu của anh em. Xin giúp chúng con biết rộng đôi tay để thi ân, để làm phúc cho kẻ cơ hàn, để nhờ đó chúng con có thêm nhiều bạn hữu trong Nước Trời.
Lạy Chúa là Đấng hay xót thương kẻ cơ hàn, xin thương xót chúng con. Xin dạy chúng con biết sống quảng đại hơn là lo cho bản thân. Xin giúp chúng con sẵn lòng phụng sự Chúa qua những kẻ cơ hàn. Amen.